Phạm Hoàng Ngọc Thảo
Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh – Phân hiệu Quảng Ngãi.
Abstract
Building environmental protection awareness for primary school students from an early age through the collection of used batteries is a necessary action that needs to be implemented regularly and maintained consistently to help create a foundation for green actions in the future. The article has shown a positive change in environmental protection awareness of primary school students when they are educated, propagandized and guided. At the same time, the article also offers some solutions to improve the efficiency of collecting used batteries.
Keywords: primary school students, environmental protection, collect used batteries.
1. Đặt vấn đề
Bảo vệ môi trường (BVMT) là một vấn đề đang được quan tâm rất lớn trên toàn cầu. Việc nâng cao nhận thức BVMT cần được xây dựng từ gốc, đặc biệt cho học sinh từ cấp tiểu học, giúp các em hình thành thói quen và hiểu rõ được BVMT trong từng việc nhỏ và việc làm cụ thể. Hình ảnh các viên pin tiểu rất quen thuộc trong các đồ chơi điện tử lúc nhỏ được ba mẹ mua cho vào dịp sinh nhật, các ngày lễ tết, ngày quốc tế thiếu nhi hay trung thu thông qua các đồ chơi trẻ em như xe ô tô điện, quạt mini cầm tay, đèn trung thu điện,...và rất nhiều vật dụng khác trong gia đình mà các em đều biết có sử dụng pin tiểu như điều khiển từ xa của tivi, quạt, máy lạnh, micro để hát....Nhưng tác hại của những chiếc pin nhỏ ấy nếu không được thu gom và xử lý đúng cách sẽ có tác hại rất lớn cho môi trường như ô nhiễm đất, nước cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của con người như thế nào thì các em còn rất mơ hồ và chưa nhận biết được. Vì vậy, việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh tiểu học (HSTH) là cần thiết, giúp các em hình thành thói quen và nhận thức BVMT lâu dài.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Theo thống kê của Raw Materials Company (RMC), thành phần chính của viên pin, đối với pin alkaline trung bình ước tính có khoảng 25% trọng lượng là thép (vỏ); 60% của pin là các thành phần kết hợp như kẽm, mangan, kali; 15% trọng lượng còn lại là giấy và nhựa,.. Tùy theo chủng loại, thành phần pin sẽ chứa nhiều kim loại nặng khác như chì (Pb), kẽm (Zn), niken (Ni), cadmium (Cd), thủy ngân (Hg), asen (As - thạch tín),…. Khi pin đã sử dụng vứt vào thùng rác, thường chúng sẽ chuyển đến các bãi chôn lấp, tiếp tục phân hủy và rò rỉ. Trải qua quá trình ăn mòn, các kim loại nặng ngấm vào đất, gây ô nhiễm nước ngầm, nước mặt và hệ sinh thái thực vật - động vật trong phạm vi rộng quanh đó. Khi chúng ta sinh sống hoặc tiêu thụ đồ ăn, thức uống nhiễm các kim loại nặng trên chính là khi quá trình tích lũy kim loại nặng này bắt đầu đối với cơ thể. Thành phần kim loại nặng trong pin đều là những chất cực độc, tùy hàm lượng và thời gian phơi nhiễm mà các kim loại nặng sẽ gây ngộ độc cấp tính hoặc mãn tính, đồng thời tích lũy lâu dài trong cơ thể gây nguy hiểm cho hệ thống thần kinh, thận, tim mạch và khả năng sinh sản của con người.
2.2. Mục tiêu của hoạt động thu gom pin tiểu đã qua sử dụng
Tác hại của viên pin tiểu nhỏ bé khi thu gom không đúng cách, thải ra môi trường là rất độc hại, nên việc thu gom là rất cần thiết. Hơn nữa, vấn đề BVMT đang được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm thông qua các nghị định, nghị quyết và các văn bản như Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 về việc phê duyệt đề án “Đưa các nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân”; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về “BVMT trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”; Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 về “Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”;… và Luật Bảo vệ môi trường, Luật số 72/2020/QH14, ngày 17/11/2020 (Quốc hội, 2020) [5], và “Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở cấp tiểu học” [3].
Với hoạt động thu gom pin tiểu đã qua sử dụng góp phần giáo dục nhận thức, xây dựng ý thức về BVMT cho HSTH, giúp cho các em nhận thức được tác hại của nó, cũng như lợi ích khi thực hiện tái chế hoặc thu gom đúng cách. Đồng thời, khuyến khích hành động thực tế thông qua hoạt động thu gom, các em học sinh không chỉ học lý thuyết mà còn thực hành bảo vệ môi trường bằng những hành động nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Hơn nữa, nội dung giáo dục BVMT đã được đưa vào Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể 2018 [1]. Chẳng hạn, yêu cầu về phẩm chất đối với HSTH là: yêu thiên nhiên và có những việc làm thiết thực bảo vệ thiên nhiên; có ý thức chăm sóc, bảo vệ cây xanh và các con vật có ích; có ý thức vệ sinh môi trường, không xả rác bừa bãi; không đồng tình với những hành vi xâm hại thiên nhiên (Bộ GD-ĐT, 2018a) [2].
Vì vậy, việc thu gom pin tiểu đã qua sử dụng cũng không quá khó khăn, chỉ cần chúng ta chú ý và quan tâm thường xuyên đến nó, nên việc phát động thu gom thông qua các hoạt động BVMT cho HSTH là việc làm nên triển khai ngay và đồng bộ.
2.3. Khảo sát mức độ tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường
Thông qua việc khảo sát của 197 học sinh lớp 5 tại Quảng Ngãi, trong đó có 104 học sinh nam (chiếm 53%) và 93 học sinh nữ (chiếm 47%) về nội dung BVMT, với yêu cầu các em phải mạnh dạn, thẳng thắn và trung thực, các việc làm của các em phải mang tính thường xuyên, ý thức và nhận thức tốt trong các hoạt động. Bảng số liệu được khảo sát vào tháng 09/2024:
Câu hỏi |
Tham gia |
Tỷ lệ |
Không tham gia |
Tỷ lệ |
Em đã từng tham gia vào các hoạt động BVMT nào không? |
197 |
100% |
0 |
0% |
Thu gom và phân loại rác (phân loại rác thải vào các thùng riêng biệt như rác hữu cơ, rác tái chế, và rác không tái chế) |
83 |
42% |
114 |
58% |
Trồng cây xanh và chăm sóc cây (trồng cây trong khuôn viên trường học khu vực lân cận hoặc gia đình và cách tưới nước, chăm sóc cây cối) |
61 |
31% |
136 |
69% |
Thu gom pin tiểu đã qua sử dụng (thu gom pin, mang pin cũ từ nhà đến trường, đến nơi thu gom pin và tìm hiểu về tác hại của pin đối với môi trường) |
21 |
11% |
176 |
89% |
Tái chế rác thải thành đồ dùng (tham gia các hoạt động sáng tạo như làm đồ chơi, hộp đựng bút, hoặc tranh ảnh từ chai nhựa, giấy báo, và các vật liệu tái chế) |
148 |
75% |
49 |
25% |
Tổ chức ngày không sử dụng túi nilon (Khuyến khích học sinh và gia đình mang túi vải hoặc túi tái sử dụng thay vì túi nilon khi đi mua sắm) |
79 |
40% |
118 |
60% |
Chiến dịch tiết kiệm năng lượng (tiết kiệm điện và nước, như tắt đèn khi không sử dụng hoặc đóng vòi nước sau khi rửa tay, tham gia giờ trái đất) |
129 |
65% |
68 |
35% |
Cuộc thi tìm hiểu về môi trường (các cuộc thi như vẽ tranh, viết bài, hoặc làm mô hình về chủ đề bảo vệ môi trường) |
134 |
68% |
63 |
32% |
Thu gom giấy vụn (phong trào thu gom giấy vụn tại trường để bán lấy tiền ủng hộ các hoạt động môi trường hoặc từ thiện) |
187 |
95% |
10 |
5% |
Xây dựng góc xanh trong lớp học (mỗi lớp học có một góc nhỏ trồng cây xanh hoặc trang trí bằng các sản phẩm tái chế, tạo không gian xanh cho lớp) |
190 |
96% |
7 |
4% |
Thông qua kết quả khảo sát các câu hỏi tập trung vào việc tham gia của học sinh vào các hoạt động BVMT, toàn bộ học sinh (100%) đều từng tham gia vào ít nhất một hoạt động BVMT, tuy nhiên mức độ tham gia vào từng hoạt động có sự khác biệt rõ rệt. Cụ thể, hoạt động xây dựng góc xanh trong lớp học (96%) đây là hoạt động dễ thực hiện, có tính trực quan cao, không đòi hỏi nhiều kỹ năng hay tài nguyên; Thu gom giấy vụn (95%) là hoạt động phổ biến trong trường học, mang tính lợi ích thực tế (có thể bán lấy tiền làm từ thiện hoặc tái chế; Tái chế rác thải thành đồ dùng (75%) hoạt động này có tính sáng tạo cao, học sinh yêu thích nhưng cần nhiều hướng dẫn thực tế; Cuộc thi tìm hiểu về môi trường (68%) đây cũng là hoạt động sáng tạo học sinh có xu hướng tham gia nhiều thể hiện sự quan tâm đến môi trường; Chiến dịch tiết kiệm năng lượng (65%): ý thức tiết kiệm điện, nước được thực hiện khá tốt, nhưng vẫn cần đẩy mạnh hơn; Thu gom và phân loại rác (42%): tỷ lệ tham gia thấp, có thể do học sinh chưa quen với cách phân loại rác hoặc không có đủ cơ sở hạ tầng hỗ trợ; Tổ chức ngày không sử dụng túi nilon (40%): việc thay đổi thói quen sử dụng túi nilon đòi hỏi cả sự hợp tác từ gia đình và nhà trường; Trồng cây xanh và chăm sóc cây (31%): tỷ lệ tham gia thấp do có thể học sinh chưa có điều kiện trồng cây hoặc thiếu kiến thức chăm sóc cây; Thu gom pin tiểu đã qua sử dụng (11%) tỷ lệ tham gia rất thấp, có thể do chưa có nơi thu gom pin tại trường hoặc học sinh chưa hiểu rõ tác hại của pin.
Qua đó, ta thấy các hoạt động dễ thực hiện tại lớp học (như xây dựng góc xanh, thu gom giấy vụn) có tỷ lệ tham gia cao. Điều này chứng tỏ học sinh dễ tham gia vào những hoạt động có thể làm ngay tại lớp, không đòi hỏi sự hỗ trợ từ gia đình. Các hoạt động liên quan đến thay đổi thói quen cá nhân (tiết kiệm năng lượng, giảm sử dụng túi nilon) có tỷ lệ tham gia trung bình. Học sinh đã có nhận thức nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể về tác động lâu dài của những hành động này. Những hoạt động đòi hỏi sự tham gia từ bên ngoài như thu gom, phân loại rác, trồng cây có tỷ lệ tham gia thấp. Đặc biệt hoạt động thu gom pin tiểu đã qua sử dụng còn rất thấp và hạn chế.
2.4. Thực hiện chương trình thu gom pin tiểu đã qua sử dụng
Tiến hành khảo sát dành cho 197 HSTH về việc quan tâm đến thu gom pin tiểu đã qua sử dụng, thực hiện tháng 09/2024:
Câu hỏi |
Thường xuyên |
Thỉnh thoảng |
Chưa bao giờ |
Em có thu gom pin đã qua sử dụng sau khi dùng xong không? |
3 |
20 |
174 |
Em có biết pin đã qua sử dụng gây hại cho môi trường không? |
12 |
33 |
152 |
Khi thấy pin đã qua sử dụng ở nhà, em có nhắc người lớn bỏ đúng nơi quy định không? |
4 |
41 |
152 |
Em có từng tìm hiểu về tác hại của pin cũ đối với sức khỏe và môi trường không? |
1 |
18 |
178 |
Em có thấy ở trường hoặc khu vực gần nhà có thùng thu gom pin cũ không? |
1 |
6 |
190 |
Nếu có thùng thu gom pin ở trường, em có bỏ pin cũ vào đó không? |
37 |
78 |
82 |
Em có nói với bạn bè hoặc gia đình về việc cần thu gom pin đúng cách không? |
3 |
18 |
176 |
Khi mua pin mới, em có quan tâm đến loại pin ít gây hại cho môi trường không? |
2 |
24 |
171 |
Em có tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường liên quan đến pin đã qua sử dụng không? |
1 |
9 |
187 |
Em có đề xuất với thầy cô hoặc người lớn về việc thu gom pin đúng cách không? |
1 |
6 |
190 |
Kết quả khảo sát cho thấy, vấn đề nhận thức về tác hại của pin chỉ có 12/197 (6,1%) học sinh thường xuyên biết rằng pin cũ gây hại cho môi trường, trong khi 152/197 (77,2%) chưa từng biết về điều này. Điều này cho thấy vấn đề nhận thức về tác hại của pin còn rất hạn chế. Hành động thu gom và xử lý pin cũ, chỉ 3 học sinh (1,5%) thường xuyên thu gom pin cũ, trong khi 174 học sinh (88,3%) chưa bao giờ thực hiện. Chỉ 4 học sinh (2%) từng nhắc nhở người lớn bỏ pin đúng nơi quy định. Điều này cho thấy ý thức hành động còn rất thấp, dù có thể một số học sinh đã nhận thức được tác hại của pin. Việc tìm hiểu thông tin về tác hại của pin, 178 học sinh (90,4%) chưa từng tìm hiểu về tác hại của pin cũ. Đây là một rào cản lớn trong việc nâng cao nhận thức vì nếu học sinh không có kiến thức, các em sẽ không biết cần phải thu gom pin đúng cách. Có 190 học sinh (96,4%) cho biết chưa bao giờ thấy thùng thu gom pin tại trường hoặc gần nhà. Tuy nhiên, khi có thùng thu gom, số lượng học sinh tham gia bỏ pin vào thùng tăng đáng kể (37 học sinh thường xuyên, 78 học sinh thỉnh thoảng). Điều này chứng tỏ nếu có cơ sở vật chất hỗ trợ, số học sinh tham gia thu gom sẽ tăng. Vấn đề tuyên truyền và ảnh hưởng đến người khác, 176 học sinh (89,3%) chưa từng nói với bạn bè hoặc gia đình về việc thu gom pin, chỉ 1 học sinh (0,5%) từng đề xuất với thầy cô về vấn đề này. Việc học sinh không chủ động chia sẻ và đề xuất giải pháp là dấu hiệu cho thấy công tác giáo dục môi trường về tác hại của pin chưa hiệu quả. Có 171 học sinh (86,8%) chưa bao giờ quan tâm đến loại pin ít gây hại khi mua. Điều này phản ánh thực tế rằng ý thức lựa chọn sản phẩm thân thiện với môi trường chưa được hình thành. Có 187 học sinh (94,9%) chưa bao giờ tham gia bất kỳ hoạt động nào về thu gom pin. Đây là minh chứng rõ ràng về sự thiếu vắng các chương trình ngoại khóa hoặc chiến dịch giáo dục về chủ đề này.
Nhằm nâng cao về ý thức BVMT cho HSTH, sau khi tuyên truyền và giáo dục giới thiệu về tác hại của pin cũ đối với môi trường và sức khỏe, tiến hành phát động hoạt động thi đua thu gom pin tiểu đã qua sử dụng đối với 197 học sinh đã tham gia khảo sát. Bắt đầu việc thu gom pin tiểu đã qua sử dụng (thời gian từ 20/09/2024 đến 20/12/2024), với sự hướng dẫn và giám sát của giáo viên phụ trách của từng lớp, học sinh mang pin cũ đến đưa cho cô giáo hoặc bỏ vào hộp thu gom đặt tại phòng học. Kết thúc chương trình phát động, tổng kết sau khi thu gom, pin sẽ được chuyển đến các đơn vị tái chế hoặc xử lý đúng quy định. Kết quả thu được rất đáng khích lệ 100% các em đều tham gia và gom ít nhất 1 viên pin tiểu đã qua sử dụng. Đặc biệt, thái độ của các học sinh tham gia chương trình rất sôi nổi và hào hứng.
Với mục đích giúp đánh giá mức độ nhận thức của học sinh về tác hại và lợi ích của việc thu gom pin tiểu. Thái độ tích cực hoặc tiêu cực của học sinh đối với các hoạt động bảo vệ môi trường. Và mong muốn mức độ sẵn sàng tham gia vào các chương trình môi trường của học sinh. Tác giả tiến hành khảo sát sau khi kết thúc chương trình với 197 học sinh trên những câu hỏi sau:
Câu hỏi |
Rất đồng ý |
Đồng ý |
Không đồng ý |
Em nghĩ rằng việc thu gom pin tiểu đã qua sử dụng là một việc làm quan trọng để bảo vệ môi trường. |
93 |
92 |
12 |
Em hiểu rõ tác hại của pin tiểu đã qua sử dụng nếu không được xử lý đúng cách. |
71 |
88 |
38 |
Em biết rằng pin tiểu đã qua sử dụng cần được đưa đến nơi thu gom thay vì vứt chung với rác thông thường. |
104 |
68 |
25 |
Em cảm thấy vui và tự hào khi tham gia các hoạt động thu gom pin tiểu ở trường học. |
67 |
99 |
31 |
Em sẵn sàng chia sẻ với bạn bè và gia đình về việc cần phải thu gom pin tiểu đã qua sử dụng. |
59 |
96 |
42 |
Em nghĩ rằng mọi người đều có trách nhiệm bảo vệ môi trường, bao gồm việc thu gom pin tiểu cũ. |
44 |
105 |
48 |
Em cảm thấy hứng thú khi được tham gia các chương trình liên quan đến bảo vệ môi trường, như thu gom pin hoặc trồng cây. |
61 |
100 |
36 |
Em thường suy nghĩ về cách làm thế nào để giảm lượng rác thải độc hại, tìm cách thu gom pin đã qua sử dụng |
34 |
80 |
83 |
Em nhận thấy thầy cô và cha mẹ rất quan tâm đến việc thu gom pin tiểu cũ, và điều đó khiến em muốn làm theo. |
73 |
98 |
26 |
Em mong muốn trường học tổ chức thêm các hoạt động thú vị về bảo vệ môi trường, như thi đua thu gom rác tái chế hoặc pin tiểu đã qua sử dụng. |
61 |
101 |
35 |
Từ kết quả khảo sát, có 185/197 học sinh (93,9%) đồng ý hoặc rất đồng ý rằng thu gom pin là quan trọng để bảo vệ môi trường, chỉ 12 học sinh (6,1%) vẫn chưa đồng ý, cho thấy đa số học sinh đã có nhận thức đúng đắn về vấn đề này. So với khảo sát ban đầu, khi 152 học sinh chưa biết pin gây hại, điều này chứng tỏ hoạt động thu gom đã giúp nâng cao nhận thức đáng kể. Có159 học sinh (80,7%) hiểu rõ tác hại của pin cũ. Tuy vẫn còn 38 học sinh (19,3%) chưa đồng ý, nhưng đây là sự cải thiện đáng kể so với lần đầu khi 178 học sinh (90,4%) chưa từng tìm hiểu. Điều này chứng tỏ việc cung cấp thông tin về tác hại của pin đã có hiệu quả. Có 172 học sinh (87,3%) biết pin cần được thu gom thay vì vứt vào rác. Đây là bước tiến quan trọng, cho thấy học sinh đã biết cách xử lý pin đúng cách. Có 84,2% học sinh (166/197) cảm thấy vui và tự hào khi tham gia thu gom pin, chỉ 31 học sinh (15,7%) không đồng ý, cho thấy hoạt động này đã tạo ra trải nghiệm tích cực. So với khảo sát ban đầu, khi 187 học sinh chưa từng tham gia hoạt động bảo vệ môi trường liên quan đến pin, đây là sự thay đổi rõ rệt. Có 155 học sinh (78,7%) sẵn sàng chia sẻ về thu gom pin với người khác. Dù vẫn còn 42 học sinh (21,3%) chưa sẵn sàng, nhưng con số này đã giảm mạnh so với khảo sát ban đầu (176 học sinh chưa từng nói với bạn bè/gia đình). Chứng tỏ tác động lan tỏa của hoạt động đã tăng lên rõ rệt. Có149 học sinh (75,6%) cho rằng mọi người đều có trách nhiệm thu gom pin cũ. Tuy nhiên, vẫn còn 48 học sinh (24,4%) chưa đồng ý, cho thấy cần thêm thời gian để các em thực sự coi đây là trách nhiệm chung. Có 161 học sinh (81,7%) thấy hứng thú với hoạt động bảo vệ môi trường như thu gom pin hoặc trồng cây, chỉ 36 học sinh (18,3%) không quan tâm, cho thấy mức độ thu hút của chương trình khá cao. Có 114 học sinh (57,9%) suy nghĩ về cách giảm rác thải độc hại, trong khi 83 học sinh (42,1%) chưa quan tâm nhiều. Đây là nội dung cần được đẩy mạnh hơn để khuyến khích học sinh chủ động hơn trong việc tìm kiếm giải pháp bảo vệ môi trường. Có 171 học sinh (86,8%) nhận thấy thầy cô và cha mẹ quan tâm đến thu gom pin, điều này khiến các em muốn làm theo, chỉ 26 học sinh (13,2%) không bị ảnh hưởng, chứng tỏ vai trò của giáo viên và phụ huynh rất quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của học sinh. Có 162 học sinh (82,2%) mong muốn trường tổ chức thêm các hoạt động như thi đua thu gom pin và rác tái chế. Điều này chứng tỏ hoạt động vừa rồi đã truyền cảm hứng cho nhiều học sinh, khiến các em muốn tiếp tục tham gia.
2.5. Đánh giá chương trình và giải pháp
Về mặt tích cực: nhận thức của học sinh đã cải thiện đáng kể về tầm quan trọng và tác hại của pin cũ. Học sinh biết cách thu gom pin đúng cách và bắt đầu lan tỏa thông tin cho bạn bè, gia đình. Đa số học sinh cảm thấy vui và tự hào khi tham gia, cho thấy chương trình có sức hút và hiệu quả. Hứng thú với các hoạt động bảo vệ môi trường tăng lên, học sinh mong muốn có thêm nhiều chương trình tương tự.
Về mặt hạn chế: vẫn còn khoảng 20-40% học sinh chưa thực sự chủ động trong việc chia sẻ hoặc suy nghĩ về cách giảm rác thải độc hại. Một số học sinh chưa coi việc thu gom pin là trách nhiệm chung mà chỉ là một hoạt động tạm thời. Ảnh hưởng từ gia đình và giáo viên là rất quan trọng, nhưng cần thêm nhiều biện pháp để học sinh chủ động hơn, thay vì chỉ làm theo hướng dẫn.
Kết quả mong đợi: Chương trình giúp học sinh nhận thức tác hại của pin cũ đối với môi trường và sức khỏe, từ đó hình thành thói quen phân loại, xử lý đúng cách và giảm thiểu rác thải độc hại. Đồng thời, học sinh được rèn luyện tinh thần trách nhiệm, kỹ năng làm việc nhóm và nâng cao ý thức về bảo vệ tài nguyên, tái chế, tiết kiệm năng lượng. Hoạt động này không chỉ tạo sân chơi bổ ích mà còn thúc đẩy tinh thần công dân xanh, góp phần xây dựng môi trường học tập xanh – sạch – đẹp.
Giải pháp:
- Luôn tuyên truyền và giáo dục khuyến khích học sinh duy trì thói quen thu gom và xử lý rác thải đúng cách, đồng thời có thể mở rộng cho nhiều đối tượng học sinh các cấp hay ngay cả “nâng cao nhận thức và hành vi sử dụng, thải bỏ pin đã qua sử dụng của sinh viên” [4]
- Động viên, nhắc nhở học sinh nhận quà (trong các dịp lễ từ người thân, gia đình và bạn bè) là sách, báo, đồ dùng học tập... hoặc các đồ chơi dân gian, đồ gỗ, lego... hạn chế những đồ chơi có sử dụng pin dùng một lần như pin tiểu.
- Tăng cường và duy trì các hoạt động BVMT, trong đó có việc thu gom pin tiểu đã qua sử dụng.
- Sử dụng sổ theo dõi và truyền thông qua Zalo/Facebook để cập nhật số lượng pin thu gom, tạo phong trào thi đua và khen thưởng lớp có thành tích tốt.
- Lồng ghép kiến thức về tác hại của pin vào môn Khoa học, Đạo đức và hoạt động trải nghiệm, kết hợp tranh ảnh, video, trò chơi giúp học sinh dễ tiếp thu.
- Duy trì thùng thu gom pin tại các vị trí thuận tiện trong trường, công khai số lượng thu gom hàng tháng để khuyến khích học sinh tham gia.
- Tổ chức thi đua thu gom pin giữa các lớp với phần thưởng hấp dẫn, kết hợp hoạt động như “1kg pin cũ = 1 cây xanh” để tăng sức hút.
- Khuyến khích học sinh thu gom pin tại nhà, mang đến trường mỗi tháng, tích lũy điểm qua thẻ điểm xanh.
- Hợp tác với phụ huynh qua thư ngỏ, tin nhắn, họp phụ huynh để nâng cao nhận thức và kêu gọi cùng con thu gom pin.
- Tổ chức ngày hội bảo vệ môi trường với chuyên gia, hoạt động đổi pin lấy quà xanh để tạo động lực tham gia.
- Thiết kế poster, video tuyên truyền, trưng bày và đăng tải trên website/trang Facebook của trường để lan tỏa thông điệp.
- Kết nối với doanh nghiệp, nhà máy tái chế để hỗ trợ thùng thu gom, tài trợ sự kiện và tổ chức tham quan trung tâm tái chế.
- Mở rộng sang các hoạt động thu gom rác thải khác như chai nhựa, giấy vụn và khuyến khích sử dụng pin sạc thay vì pin dùng một lần.
3. Kết luận
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả mọi người. Nó là một yêu cầu rất cấp thiết hiện nay cho mọi quốc gia. Điều này ảnh hưởng rất sâu sắc đến tương lai của con người. Để hình thành thói quen bảo vệ môi trường chúng ta cần giáo dục cho trẻ em từ lúc sớm đặc biệt là học sinh tiểu học nơi các em bắt đầu học tập và nhận thức thông qua các bài học. Giáo dục bảo vệ môi trường không nhất thiết phải là những điều to tát mà đi từ những hoạt động thiết thực hàng ngày dễ thấy, dễ quan sát và dễ thực hiện. Và chiếc pin tiểu nhỏ bé rất quen thuộc và gần gũi nhưng rất nhiều trẻ em không hiểu được sự nguy hại cho môi trường của những chiếc pin này sau khi sử dụng không được thu gom đúng quy định và vứt bỏ tự nhiên trong môi trường.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi tuyên tuyền, giáo dục và hướng dẫn cũng như phát động phong trào thu gom pin đã qua sử dụng thì nhận thức và thái độ của các em đã chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên dữ liệu nghiên cứu còn rất nhỏ, chỉ xem như nghiên cứu trường hợp, chưa thể phản ánh đầy đủ nhận thức của HSTH trong việc thu gom pin đã qua sử dụng, song nó cũng rất cần thiết, là tiền đề cho chúng ta có thể tiến hành cho việc khảo sát và nghiên cứu sâu hơn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ GD-ĐT (2018a). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[2]. Bộ GD-ĐT (2018b). Chương trình giáo dục phổ thông môn Tự nhiên và Xã hội (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[3]. Nguyễn Trọng Đức & Bùi Thị Nhiệm (2023). Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở cấp tiểu học. Tạp chí Giáo dục, 30-35.
[4]. Nguyễn Phạm Mai Thi & Nguyễn Xuân Hương (2023). Nhận thức và hành vi sử dụng, thải bỏ pin đã qua sử dụng của sinh viên Trường Đại học Kỹ thuật Y-Dược Đà Nẵng năm 2022. Tạp chí Y học Dự phòng, 33(6 Phụ bản), 422-428.
[5]. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường. Luật số 72/2020/QH14, ngày 17/11/2020.