1. Đặt vấn đề
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Kế hoạch hành động để triển khai thực hiện Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện NQ 29/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo kế hoạch, trong thời gian tới ngành Giáo dục đào tạo sẽ thực hiện rất nhiều những nhiệm vụ cụ thể và quan trọng trong đó có đổi mới hình thức kiểm tra, thi và đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo.
Thực hiện nhiệm vụ này, Kế hoạch chỉ rõ sự cần thiết phải đổi mới phương pháp kiểm tra, thi, đánh giá người học, ngay trong quá trình và qua từng giai đoạn giáo dục, giúp kịp thời điều chỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động dạy và học ở các cấp học và trình độ đào tạo. Đó là một định hướng đúng, một giải pháp xác thực.
Nhìn lại các quan điểm và cách tổ chức thi cử hiện nay ở nước ta, ngay cả đối với các trường đại học, cao đẳng chúng ta dễ thấy có quá nhiều những bất cập, cần nhân dịp này mà nhanh chóng khắc phục, gỡ bỏ.
2. Mục đích của các kỳ thi chưa được xác định rõ ràng
Trong các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thi cử thì tiêu chuẩn đầu tiên phải xét đến là đúng mục đích (fitness of purpose). Tùy theo ý nghĩa cụ thể của các kỳ thi, kiểm tra mà mục đích đánh giá là rất khác nhau, theo đó yêu cầu về các nội dung khác như tính chất đề thi, quan điểm về đánh giá cũng phải tương ứng.
Thử minh họa thông qua một kỳ thi tốt nghiệp, ví dụ tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Những người sắp kết thúc khóa học 3 năm, 4 năm ở một trường đại học, cao đẳng đã thực sự có những biến đổi về chất kiến thức và năng lực. 12 năm học ở các bậc phổ thông, những năm học tại trường đại học đã chuẩn bị cho họ một nền văn hóa và một nền kiến thức chuyên ngành cần thiết. Hầu hết kiến thức mà họ được học đã là những tri thức mà họ có. Rõ ràng mục đích chính của kỳ thì tốt nghiệp đối với họ là nhằm đánh giá nền văn hóa đó, mức độ biến đổi về chất các loại kiến thức đó. Vì vậy không thể cho rằng ở đây việc nhớ được ngày, tháng, năm sinh của một nhân vật lịch sử; việc trình bày được các biến đổi hóa lý của một hợp chất hữu cơ nào đó là quan trọng hơn so với việc hiểu biết về các quy tắc an toàn trong lao động, về quyền và nghĩa vụ của công dân trong đời sống xã hội. Cũng như thế, ở đây không thể cho rằng việc sinh viên (SV) tiếp tục giải được những bài toán đơn thuần sách vở của các môn kỹ thuật cơ sở, cơ bản là cần thiết, trong khi khả năng phân tích, khả năng phản biện, khả năng tiếp cận cái mới của họ chưa được xem xét đúng mức.
Trao đổi, thảo luận ở một số hội nghị, hội thảo về chuyện thi cử không khó để nhận ra là rất nhiều người, đôi khi là cả một tập thể, chỉ quan tâm đến đề thi khó hay dễ mà quên mất chức năng đánh giá các mục tiêu của đề thi. Có người cho rằng đề thi tốt nghiệp cần khó hơn đề thi kết thúc môn học, có người cho rằng cần làm ngược lại, có nơi lại lấy ngay một môn học đã được thi cử xong xuôi làm môn thi tốt nghiệp…Tất cả tạo nên những ẩn số không đáng có mà nguyên nhân là do thiếu sự cân nhắc, thiếu sự đầu tư cần thiết cho chuyện thi cử.
Với kỳ thi tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng chúng ta thấy rằng, trình độ văn hóa, kiến thức chuyên môn của SV cần có như một mặt bằng chuẩn về văn hóa và năng lực của con người trong xã hội phát triển. Mặt bằng chuẩn ấy được định dạng bởi nhiều phần, nhiều cung bậc khác nhau, và do vậy chỉ khi nội dung thi tốt nghiệp liên thông được các “tinh chất” từ nhiều môn học, từ nhiều học phần, học liệu mới có đủ khả năng để kiểm định, để đánh giá. Các SV tốt nghiệp phải là những người biết áp dụng kiến thức, biết tạo ra kiển thức, có khả năng thích nghi với các biến động, chứ không phải chỉ là một “bình chứa” chứa các thứ đã được học, đã được nhồi vào. Chỉ khi cân nhắc được như thế mới thấy rằng các kỳ thi tốt nghiệp mà chỉ nhằm đo đạc đánh giá lại những gì SV đã nhớ, đã hiểu, thay vì kiểm tra khả năng suy luận, khả năng nghi ngờ, khả năng kết nối các thông tin của họ là hoàn toàn sai mục đích.
Cũng như vây, đối với các luận văn, khóa luận tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Vì luận văn, khóa luận chưa phải là nghiên cứu khoa học mà chỉ là bước kiểm nghiệm cuối cùng về khả năng tiếp cận các đề tài khoa học, nên ở đây không thể coi bản thân nội dung các đề tài là quan trọng so với các yêu cầu về cấu trúc bố cục đề tài, phương pháp thu thập tài liệu, minh chứng, phương pháp trình bày, diễn dải, tiến độ thực hiện đề tài của SV. Tham dự một vài hội đồng bảo vệ luận văn, khóa luận tốt nghiệp, lướt qua vài quyển luận văn, khóa luận của SV chúng ta rất dễ bắt gặp các bất cập cần thay đổi trong nhận thức ở đây.
Với kỳ thi tuyển sinh đầu vào, thi kết thúc học phần, môn học thì mục đích sẽ nằm ở những hướng khác. Đó có thể là đảm bảo công bằng trong tuyển chọn, phát hiện các điểm mạnh, yếu của từng người học, hoặc cũng có thể là để tạo ra sự thi đua phấn đấu…
Có được mục đích đúng, nghiêm túc thực hiện các tiêu chuẩn quan trọng khác như công bằng (equity), minh bạch (transparency), ít sai phạm (error-proof), linh hoạt (flexibility)... Chắc chắn chúng ta sẽ có được những kỳ thi như mong muốn.
3. Chưa hiểu đúng về “Đề mở”
Qua các hội nghị về dạy và học gần đây chúng ta thấy nhiều trường học, nhiều giáo viên (GV) quan tâm đến việc ra đề thi theo kiểu “Đề mở”. Thực ra đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới, tuy nhiên thông qua các cuộc tiếp xúc chuyên môn thông thường, và ngay cả trong các cuộc thảo luận chính tắc về nghề nghiệp chúng ta đều dễ nhận thấy cách hiểu về loại đề thi này ở nhiều người còn chưa thật chính xác.
Về bản chất, “Đề mở” không chỉ đơn giản là loại đề thi được phép mang tài liệu vào phòng thi. “Đề mở” là dạng đề mang tính gợi mở, đề cập đến những vấn đề tương đối rộng, có thể không nằm trong những nội dung đã học. “Đề mở” cho phép đánh giá khả năng tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn, nhiều góc độ, kích thích khả năng trình bày quan điểm cá nhân của người học. Nói chung “Đề mở” cho phép người học tự do hơn trong làm bài thi. Ở “Đề mở” người ta quan tâm nhiều đến khả năng diễn đạt, khả năng “thể hiện cái mới”, khả năng nói cách khác đi một vấn đề, thậm chí là ngược chiều ở người học… “Đề mở” không quan tâm nhiều đến khả năng nhớ của người học nên thông thường (đến độ được coi là mặc nhiên), với hình thức thi này người học được mang tài liệu vào phòng thi.
Với cách phân tích như trên ta thấy “Đề mở” có nhiều nét thuận lợi, nhất là với quan điểm dạy học hiện tại “lấy người học làm trung tâm”, “dạy học là một quá trình định hướng”. Và như vậy việc quan tâm của nhiều GV đối với đề thi theo kiểu mở là một tâm lý khách quan. Tuy nhiên thách thức đối với người ra đề thi theo định hướng này không phải nhỏ.
Trước hết đối với GV ra đề. “Đề mở” nhưng “mở” theo hướng nào, “mở” đến mức nào; liệu có gây được cảm hứng, tạo kích thích được người học nói ra những suy nghĩ có trách nhiệm, những suy nghĩ đẹp đối với các vấn đề được “mở” hay không? Tất cả những điều đó phụ thuộc vào cách nêu vấn đề trong câu hỏi thi. Còn nhớ, trong kỳ thi HS giỏi HS trung học các lớp không chuyên Hà Nội năm 2005 có đề thi: “Em hãy giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Vì HS trung học chưa được học môn Mỹ học nên các em không thể biết Cái bi là một phạm trù của Cái đẹp trong Mỹ học. Nói đến bài văn tế này của Nguyễn Đình Chiểu là phải nói đến Cái bi, Cái hùng của tác phẩm. Quan niệm Cái bi trong Mỹ học chưa được dạy nên nó không thể được hiểu là đẹp văn chương. Và như vậy đề thi này đã “mở” không đúng cửa.
Đối với GV chấm thi. Với loại “Đề mở” GV chấm thi phải đứng trước một thách thức lớn, đó là khả năng phán xét cái mới; khả năng tiếp nhận hay từ chối đối với các vấn đề mới. Muốn vượt qua thách thức này GV ngoài việc phải là những người có bản lĩnh nghề nghiệp, bản lĩnh văn hóa còn là người không chỉ giỏi trong lính vực chuyên môn của mình mà còn có thể phải giỏi trong một số lĩnh vực chuyên môn gần khác.
4. Không phải ai cũng ra được đề thi trắc nghiệm khách quan
Những năm gần đây, các bài thi sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan (TNKQ) đang được sử dụng ngày một nhiều hơn. Những vấn đề cơ bản nhất về TNKQ chúng ta đã có nhiều dịp bàn đến. Nội dung quan trọng nhất quyết định thành công của phương pháp thi này chính là vấn đề ra đề thi.
Nếu như trong bài thi tự luận, có vẻ bất kì một GV nào cũng có thể ra đề thi cho môn học của mình thì trong thi TNKQ vấn đề không còn đơn giản như vậy. Để làm được một bộ đề TNKQ tốt, GV ngoài việc phải tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ còn rất cần phải có những hiểu biết nhất định về khoa học đo lường và đánh giá này. Đã có nhiều người khi nghe qua về phương pháp thi này đã lập tức viết ra hàng mấy chục, thậm chí hàng trăm câu hỏi sẵn sàng cho vào cuộc, nhưng rồi càng phân tích, nghiền ngẫm càng thấy non nớt và yếu kém. GV càng cố gắng thì càng nhận thấy ở bộ đề thi của mình nhiều thiếu sót, có lúc tưởng chừng khó có thể bù đắp được. Tất cả những cảm giác khó chịu đó là khó tránh khỏi. Và việc chúng ta công nhận rằng không phải ai cũng ra được đề thi TNKQ cũng là điều cần thiết.
Dù là người đã có kinh nghiệm hay chưa có kinh nghiệm, đã thành công hay chưa thì để làm được một bộ câu hỏi TNKQ đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu đều cần phải trải qua các bước thực hiện cơ bản mà các nhà khoa học đo lường về phương pháp này đã chỉ ra. Trước hết đó là việc rà xét lại các mục tiêu giảng dạy. Mục tiêu giảng dạy sẽ quyết định ý đồ thiết kế bài thi, mức độ khó dễ và các vấn đề kĩ thuật cần giải quyết. Tiếp theo đó là việc Phân bố số câu hỏi cho từng nội dung cần trắc nghiệm; Viết các câu hỏi dưới dạng thô và tinh chỉnh nhiều lần; Đề nghị các chuyên gia khác về môn học (và có thể là chuyên gia về khoa học TNKQ) rà soát lại bộ đề. Bước cuối cùng và không thể không làm là thảo luận với SV sau khi đã thi xong và tự rút cho mình kinh nghiệm. Trong nhiều trường hợp, ý kiến của người học là xác đáng nhất và cần được quan tâm nhất; những dư âm sau mỗi lần thi, sau mỗi kết quả thi là bài học sâu sắc không thể thiếu của người làm đề thi, nhất là loại đề thi TNKQ.
Để thấy rõ hơn về cái hay, cái khó, cái dễ làm thành trò cười trong khi thực hiện các câu TNKQ, tác giả bài viết xin giới thiệu 2 câu TNKQ đã được sử dụng, một câu của một chuyên gia về TNKQ và một câu của một hội đồng thi tốt nghiệp đại học:
Nếu một SV chỉ trích một câu TNKQ thì GV nên:
A. Thay câu hỏi đó.
B. Nghe một cách thật khách quan.
C. Ca ngợi sinh viên vì đã tìm ra sai sót.
D. Giải thích cho sinh viên là họ bị nhầm lẫn.
Nguyễn Ái Quốc gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị Vecxây vào thời gian nào?
- A.18/6/1917; B. 18/6/1919; C. 18/6/1920; D.18/6/1921.
5. Kết luận
Một hệ quả tất yếu của giáo dục là thi sao học vậy. Hệ thống thi lệch lạc thì việc học việc dạy cũng không thể đứng đắn. Chương trình thi nhồi nhét quá nhiều các kiển thức nên HS cũng phải học một cách nhồi nhét tương ứng. Thi không nghiêm túc thì học cũng không nghiêm túc, thi các nội dung không dùng để làm gì thì cả học và thi sẽ đều quấy quá cho xong; tùy tiện thay đổi đáp án bài thi, GV cũng sẽ tùy tiện khi làm đề thi. Nhắc lại như thế để thấy tầm quan trọng của từng mắt xích thi cử đối với guồng máy hoạt động giáo dục, đào tạo và tầm quan trọng của việc đổi mới nó.
--------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tiến Dũng - Thế nào là một hệ thống thi cử tốt- Bài viết đăng trên blog của tác giả.
2. Trắc nghiệm khách quan- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
ThS. TÔN QUANG MINH
Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu