GS. MẠC ĐƯỜNG
Trường Đại học Bình Dương
1. Đặt vấn đề
Cuộc đối thoại về giáo dục đại học do GS. Ngô Bảo Châu chủ trì và được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh trong 2 ngày (31 tháng 7 và 1 tháng 8 năm 2014) là một cảnh báo khá đậm nét về thực trạng của nền đại học nước ta hiện nay. Bởi vì, sự cảnh báo này đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam nêu lên trong nhiều năm qua và đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về "đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Gần đây nhất, trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội đã đăng bài viết “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam – cần xuất phát từ đổi mới giáo dục đại học” của TS. Nguyễn Thu Tuấn(1). Nhưng cho đến nay, sự cố gắng của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chưa làm giảm bớt được mối quan ngại về “tiến bước tụt hậu” của nền đại học Việt Nam đương đại trong lòng người dân. Có ý kiến cho rằng, sự tụt hậu của nền đại học Việt Nam có thể sánh với nền đại học Lào và Campuchia(2). Tôi nghĩ rằng, sự so sánh ấy là chưa thỏa đáng, nhưng cũng giúp cho ta một nhận thức cấp bách để căng sức vươn lên nhanh chóng thực hiện chủ trương lớn về đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục đại học hiện nay.
2. Điểm nút đang trói chặt nền đại học Việt Nam hiện nay
Theo GS. Ngô Bảo Châu, “trong bức tranh lớn của giáo dục Việt Nam, giáo dục đại học có lẽ là mảng cần sớm có một sự đổi mới căn bản và toàn diện. Đó là mảng phức tạp nhất và đâu là những cái nút cần thiết cần phải gỡ đầu tiên?(3). Có nhiều điểm nút mà tác giả bài báo này chưa biết hết, nhưng có 3 điểm nút quan trọng nhất cần tập trung tháo gỡ có hệ thống mà tác giả đã cảm nhận được.
2.1. Xóa bỏ chế độ bao cấp và quan niệm bao cấp trong giáo dục và đào tạo đại học. Theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, cho đến nay “nhà nước vẫn đóng vai trò kiểm soát quá lớn. Việc phát triển trường theo định hướng nghiên cứu, ứng dụng hay vừa nghiên cứu,
vừa ứng dụng chủ yếu do các nhân tố ngoài trường quyết định. Việc thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể trường, bổ nhiệm chủ tịch hội đồng trường và hiệu trưởng… do cơ quan chủ quản quyết định, hội đồng trường không có thực quyền…"(4). Vì bao cấp nên đẻ ra nạn “bồi dưỡng” bằng "phong bì" để cho mở một bộ môn, một khoa mới, việc dạy một chuyên đề khoa học cũng có nhiều khó khăn, có dư âm không chứng cớ về mức tiền nào đó phải nộp cho Bộ chủ quản để “bôi trơn” giải quyết công việc điều hành của trường,… Nguy hiểm hơn là bệnh “cận huyết” trong đào tạo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lấy từ sinh viên (SV) của khoa tại trường mà GS Ngô Bảo Châu gọi là một việc “làm ngược với thế giới”(5). Nghĩ lại, việc tuyển chọn sinh SV giỏi, khá để đào tạo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy cho trường đại học là hợp lý và xưa nay vẫn làm, vẫn được hoan nghênh. Mặt khác, chưa ai nghĩ tới là tính “cận huyết” nguy hiểm của nó. Vì là SV trở thành giảng viên, SV này sẽ trở thành người rao giảng các quan điểm mà mình tiếp thu của thầy nên không có ý chí vươn lên bổ sung mới cho giáo trình, thiếu ý chí sáng tạo và sự vận dụng thực tiễn đổi mới. Họ xem bài giảng của thầy làm “trung tâm”, không lấy “nhu cầu nhận thức”của SV làm trung tâm giảng dạy. Ngược lại, bài giảng của thầy đã được cấp Bộ thông qua thì không cần thiết bổ sung, chuyên sâu và cập nhật hóa tính cơ bản của chuyên đề nữa. Phương pháp dạy “thầy giảng, sinh viên chép” từ đầu buổi đến hết tiết học vẫn ung dung tồn tại. Dựa vào “vị thầy” đã theo học để tạo uy tín và uy lực đối với đồng nghiệp và SV, có SV đã có tâm lý phe nhóm nên đã hạn chế tính cộng đồng trong nghiên cứu khoa học. Cũng có thầy, sau khi được nhận chức danh khoa học cao quý thì xuất hiện tâm lý “an bài, gác kiếm”. Tâm lý ấy tác động mạnh đến người kế nhiệm và tạo nên nguồn “cận huyết” duy trì nếp bao cấp trong giảng dạy đại học, làm giảm động lực nghiên cứu hoặc bỏ chức năng nghiên cứu khoa học, nghiêng hẳn về phía chủ quan, rao giảng chay và lạc hậu về kiến thức đương đại. Đó là một vài cái nút của lối quản lý bao cấp trong giáo dục đại học
đang tồn tại cần tháo gỡ. Hãy rà soát trong nền đại học hiện nay còn bao nhiêu nút quan liêu bao cấp đang ràng buộc?. Trong đó, có hiện tượng giảng dạy thời bao cấp theo chế độ rao giảng bất cần tín chỉ. Cho đến nay, vẫn còn ý kiến cho rằng, nền đại học chúng ta “rất hạnh phúc nhờ có Bộ chủ quản, nhờ cơ chế xin - cho và khi có lỗi thì có chỗ đổ trách nhiệm”(6).
2.2. Xây dựng ngay hệ thống chính sách cụ thể về “quyền tự chủ đại học” mà nước ngoài gọi là “tự trị đại học” (educational autonomy) theo nhu cầu xã hội Việt Nam và tình hình kinh tế-chính trị thế giới biến động mang tính đột biến hiện nay. Các trường đại học công tập và tư thục phải có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực có nhân cách và phẩm chất chính trị bảo đảm cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tạo ra cuộc sống thịnh vượng cho nhân dân trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh thương mại gay gắt trong cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và mối quan hệ hợp tác lâu dài với 21 nền kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), với sự tranh chấp quyền lợi hải dương trên Biển Đông còn nhiều bất trắc khó lường. Để có một nền giáo dục đại học có năng lực với thời cuộc đang biến đổi, nhà nước cần sớm luật hóa đầy đủ hơn nữa các nội dung cơ bản sau đây về quyền tự chủ cho các trường đại học Việt Nam. Đó là các quyền được:
a) Tự quản về tổ chức: Tự giải quyết bất đồng trong Hội đồng quản trị, tổ chức các khoa và bộ môn kiến thức, tổ chức các hội đoàn trong trường, dự thảo kế hoạch phát triển tổ chức bộ máy hoạt động của toàn trường, nghiêm cấm thành lập các tổ chức kinh doanh dưới mọi hình thức.
b) Tự quản tài chính: Tự quyết phân bổ kinh phí, tự quản nguồn quỹ chung, tự quản nguồn kinh phí vay mượn, làm chủ đất đai và công trình xây dựng, tự quản lý học phí của SV, định kỳ nâng lương và trả lương cho cán bộ, giáo viên và nhân viên của nhà trường.
c) Tự quản bầu chọn chức danh khoa học: Tự công nhận học vị, chức danh khoa học và chức danh quản lý bộ môn, khoa, các đơn vị chức năng, định kỳ nâng cấp, nâng bậc cho cán bộ.
d) Tự quản nghiên cứu khoa học: Nắm danh sách thầy giáo và SV tham gia nghiên cứu khoa học, công nhận các đề tài giảng dạy và nghiên cứu khoa học của trường, tổ chức khai giảng và tốt nghiệp các chương trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học, quản lý chất lượng giáo dục, đề xuất các chương trình giảng dạy, đề tài nghiên cứu khoa học mới.
Nhu cầu đào tạo đại học Việt Nam hiện nay là giúp SV nhiều kiến thức đương đại, kỹ năng thực hành tốt, kỹ năng sống có nhân cách (personality) cộng đồng, có trách nhiệm công dân và tinh thần sẵn sàng nhận
mọi nhiệm vụ khi Tổ quốc cần đến. Nhu cầu đào tạo đại học đòi hỏi các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ phải trở thành những động lực năng động trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học chứ không chỉ là vinh danh một phẩm tước khoa học dành cho những nhà khoa học đã không còn đủ năng lực với công việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học hiện hành nữa. Phải tách bạch ra hai quan niệm ứng xử khác nhau: tôn vinh công lao quá khứ và hiệu quả công việc giảng dạy, nghiên cứu hiện nay.
2.3. Nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề “đại học phi lợi nhuận” và trách nhiệm của nhà nước đối với hệ thống đại học tư thục hiện hành. Là một tổ chức phi lợi nhuận (non profit organization, viết tắt là NPO, có thể gọi là not for profit), đó là tổ chức không phân phối các quỹ thặng dư cho các sáng lập viên hay cổ đông mà sử dụng quỹ ấy để phát triển tổ chức trường. Ngược lại, một tổ chức vụ lợi là tổ chức có mục đích tìm kiếm lợi nhuận để phân chia cho các cổ đông. Một đại học phi lợi nhuận thường làm tốt những việc sau đây:
- Mời các nhà khoa học giỏi và có uy tín về hoạt động giảng dạy, nghiên cứu tại trường.
- Xây dựng thư viện, phòng thí nghiệm, trạm ứng dụng công nghệ, ký túc xá, trung tâm văn hóa, cơ sở học nghề, các hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt cộng đồng cho SV và cán bộ giảng dạy.
- Tài trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, các cuộc khảo sát, điều tra thực địa, các luận án khoa học có ý nghĩa thực tế ứng dụng, các công trình phổ biến khoa học.
- Tài trợ cho SV bị tai nạn bất ngờ, cho các thủ tục hành chính thực thi với các cơ quan nhà nước về chính sách an sinh xã hội đối với SV, cán bộ nhà trường.
- Tổ chức họp mặt hàng năm hội đồng trường, các cổ đông, SV, cán bộ giảng dạy nhà trường.
- Tổ chức tham quan trong và ngoài nước cho hội đồng trường, cổ đông, các cán bộ, nhân viên có cống hiến xuất sắc.
- Tổ chức các cuộc gặp tri ân với cơ quan địa phương, các cổ đông, phụ huynh học sinh hàng năm đã có công giúp đỡ trường,...
Về quan niệm, chúng ta cần phân biệt rõ khái niệm “phi lợi nhuận” (not for profit) với khái niệm “lợi ích” (good). Thực hiện phi lợi nhuận để xây dựng và phát triển trường đại học, nhưng khi trường đại học đã nổi danh và thu được quỹ thặng dư cao (ở Việt Nam thường là sau 8 năm hoạt động), lúc ấy, Ban Giám hiệu và HĐ Quản trị Trường phải có trách nhiệm tìm kiếm những biện pháp hợp lý để đem lại lợi ích (good) thiết thực cho mọi thành viên cổ đông. Tất cả phải cùng nhau “đàm phán” dân chủ, công khai và minh bạch.
3. Kết luận
Thiết nghĩ, nhà nước cần đầu tư một mức độ nào đó cho một số trường đại học tư thục đã tồn tại vững chãi (ví dụ: đầu tư cho nghiên cứu khoa học và xuất bản giáo trình đại học, cho thư viện và tạp chí, vườn thí nghiệm chẳng hạn…) để quản lý các trường đại học tư thục như nhiều nước trên thế giới đã làm. Đó là một chính sách công bằng giáo dục và bình đẳng về nhân quyền của nhà nước nhằm quản lý và ngăn cản những hành động thương mại trong giáo dục đại học, chống xu hướng “đại học đậm mùi tiền” và chất lượng đào tạo đại học đang “tụt hậu”, xuống cấp như dư luận quan ngại hiện nay. Không nên dựa vào quan niệm “xã hội hóa” để hợp thức hóa các hành vi “thương mại hóa” giáo dục đại học hoặc để khoán trắng trách nhiệm đầu tư ngân sách công đối với giáo dục đại học tư thục.
Nhà nước cần xem xét lại vấn đề thuế cho các trường đại học, nhất là các trường đại học đã thực hiện nghiêm chỉnh qui trình đại học phi lợi nhuận. Thuế là nghĩa vụ với quốc gia, nhưng thuế bất hợp lý sẽ thúc đẩy ý đồ “thương mại hóa” tung hoành đa diện và làm cho giáo dục đại học nhanh chóng tiến bước “tụt hậu” so với các nền đại học trong cộng đồng ASEAN hiện nay. Thiết nghĩ, đó là những nút cơ bản cần tháo gỡ sớm cho nền giáo dục đại học Việt Nam cất cánh vươn lên trong thời gian tới mà tác giả cảm nhận được.
__________________
Chú thích
(1) Nguyễn Thu Tuấn (2014), Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam – cần xuất phát từ đổi mới giáo dục đại học. Tạp chí Giáo dục&Xã hội, số 38 (99), tháng 5, tr.2-6 .
(2) Thanh Tuấn - Trần Huỳnh (2014), Đại học Việt Nam tụt hậu như Lào, Campuchia. Báo Tuổi trẻ ngày 01 tháng 8, tr.13.
(3, 4) Thùy Vinh (2014), Gỡ nút thắt giáo dục đại học. Báo Người Lao động, ngày 1 tháng 8, tr.11.
(5) Lê Anh Hoa (2014), Chúng ta làm ngược với thế giới. Báo Tuổi trẻ ngày 31 tháng 7, tr. 13.
(6) Võ Hồng Quỳnh (2014), Đại học đậm mùi tiền. Báo Tuổi trẻ ngày 3 tháng 8, tr.3.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Giáo dục đại học (2012), NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
2. L’enseignement supérieure au XXIe siècle – Vision et action, UNESCO, Paris, 5-9 Octobre 1998.
3. Thomas Estermann & Terhi Nokhala (2009), “University autonomy in Europe I ”, UEA (European University Association), Brussels.
4. Review University Autonomy (2005), “Autonomous Universities towards Peak of Exellence”, Genève, 1.