Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcCUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MĨ Ở VIỆT NAM: 50 NĂM NHÌN LẠI

CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MĨ Ở VIỆT NAM: 50 NĂM NHÌN LẠI

Thứ tư, 20 Tháng 8 2025 19:19
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1)

PGS. TS. NGUYỄN DUY BÍNH

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

TRỊNH THỊ HƯỜNG

Trường Đại học Y Hà Nội

Nhận bài ngày 20/7/2025. Sửa chữa xong 06/8/2025. Duyệt đăng 10/8/2025. 

Abstract

The Great Spring Victory of 1975 represents a brilliant milestone in the history of the Vietnamese nation, marking the glorious triumph of the Resistance War against the United States for national salvation and offering valuable lessons for the cause of national construction and defense. On the occasion of the 50th anniversary of the Liberation of the South and National Reunification (April 30, 1975 – April 30, 2025), this article provides a comprehensive analysis of the U.S. war of aggression in Vietnam (1954–1975), grounded in statistical data, research materials, and approached through the historical–logical method. The findings highlight the brutality of the war in terms of force deployment, bomb and ammunition usage, chemical warfare, and enormous financial costs, while also analyzing major strategic failures, most notably the Linebacker II campaign, which compelled the United States to sign the Paris Peace Accords and withdraw its troops. From this basis, the article affirms a timeless lesson: an unjust war can never subdue the determination for independence of a resilient nation and will inevitably end in failure.

Keywords: Aggressive war, U.S. military strategy, resistance war against the U.S., war crimes, historical lessons.

1. Mở đầu

Ngày 30/4/2025 đánh dấu tròn 50 năm Chiến thắng mùa Xuân 1975, đây là thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lịch sử, đồng thời kết thúc hoàn toàn cuộc chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này không chỉ chấm dứt ách thống trị bù nhìn của chế độ Sài Gòn mà còn khép lại một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất thế kỷ XX, đưa đất nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên thống nhất, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Ngày 30/4/1975 đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, đồng thời là một sự kiện mang tầm vóc quốc tế, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nửa thế kỷ đã trôi qua, thế giới và khu vực chứng kiến nhiều biến đổi sâu sắc nhưng những tác động của cuộc chiến tranh Việt Nam và thất bại của Hoa Kỳ trong cuộc xâm lược vẫn là chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới học giả. Cuộc chiến không chỉ để lại những hệ quả lâu dài đối với Việt Nam mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại, vị thế chiến lược và đời sống chính trị – xã hội của Hoa Kỳ cũng như tác động tới cấu trúc an ninh toàn cầu thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ góc nhìn lịch sử – chính trị, bài viết này phân tích nước Mỹ trước và trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời làm rõ những biến chuyển của Mỹ và bối cảnh thế giới sau khi cuộc chiến kết thúc. Qua đó, nghiên cứu góp phần lý giải nguyên nhân thất bại của một siêu cường quân sự trước ý chí kiên cường của một dân tộc cũng như rút ra những bài học có giá trị cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước trong bối cảnh hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Nước Mĩ trước và trong chiến tranh Việt Nam

Kể từ ngày nước Mĩ tuyên bố độc lập (04 tháng 7 năm 1776) đến ngày 01 tháng 01 năm 1961, là thời điểm nước Mĩ phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, lịch sử nước Mĩ đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh: chiến tranh giành độc lập chống lại quân đội Anh, chiến tranh xâm chiếm đất đai của người da đỏ, chiến tranh giành thuộc địa với Tây Ban Nha, nội chiến, cuộc chiến với Mê-hi-cô, chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến tranh thế giới thứ hai…Trong suốt hai thế kỷ đó, nước Mĩ tuy có lúc mạnh yếu, quân đội Mĩ cũng có khi nếm mùi thất bại nhưng rốt cuộc, nước Mĩ và quân đội Mĩ đều chiến thắng. Nước Mĩ vẫn tự hào là quốc gia có một quân đội chưa hề biết đến chữ đầu hàng [1, tr. 1124].

Trong lịch sử các cuộc chiến tranh mà quân đội Mĩ từng tham chiến, nước Mĩ bao giờ cũng giành được phần lợi thế: hoặc là chiếm thêm đất đai, hoặc là mở rộng ảnh hưởng bằng việc thiết lập mạng lưới căn cứ quân sự ở nước ngoài. Nước Mĩ đã không chế và kiểm soát được nhiều khu vực chiến lược, giàu tài nguyên trên thế giới… Tất nhiên, các cuộc chiến tranh đó đều là những cơ hội béo bở để giới tư bản độc quyền Mĩ thu những món lợi nhuận khổng lồ. Không những thế, nước Mĩ còn luôn đứng trên đỉnh cao của người chiến thắng. Khi tiến hành chiến tranh, với những chiêu bài mị dân nên các nhà cầm quyền ở Nhà trắng thường không gặp phải sự phản đối đáng kể nào từ phía nhân dân và dư luận của nước Mĩ [2]. 

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mĩ đã trở thành siêu cường, từ can dự đến trực tiếp xâm lược Việt Nam từ 1954 đến 1975. Mặc dù đã nhận thức và tính toán chi li, giới cầm quyền ở Oa-sinh-tơn đã vô cùng sai lầm khi chọn Việt Nam làm cuộc đụng đầu lịch sử. Trong công trình A-đen-phi số 142, 1978, Viện quốc tế nghiên cứu chiến lược Luân Đôn xuất bản, Bru-xơ Gran viết: “Cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh lâu dài và quyết liệt nhất trong tất cả những cuộc chiến tranh giành độc lập kể từ khi kỉ nguyên thực dân bắt đầu sụp đổ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Kết quả của cuộc chiến tranh này không chỉ là thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam mà đồng thời còn là thất bại quân sự đầu tiên của nước Mĩ, dẫn đến sự đảo lộn quan trọng trong chính sách đối ngoại của nước Mĩ” [2].

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ trong lịch sử chiến tranh Hoa Kì lại có nhiều học thuyết về chiến tranh với tên tuổi của hàng tá các “nhà lý thuyết quân sự, các giáo sư công tác tại nhiều trường đại học và trung tâm nghiên cứu chiến lược Hoa Kì”. Nội dung các học thuyết này là những giải pháp ứng dụng cho thực tiễn của Mĩ trong chiến tranh Việt Nam [3].

Từ năm 1954 đến năm 1975, Mĩ đã thực hiện nhiều học thuyết về chiến lược chiến tranh ở Việt Nam: Chiến tranh đơn phương (1954-1960). Sau Hiệp định Geneve (1954), Mĩ không thực hiện tổng tuyển cử mà dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp phong trào cách mạng, tiêu diệt lực lượng cộng sản. Chúng xây dựng quân đội Sài Gòn dưới sự huấn luyện và viện trợ của Mĩ. Chiến tranh đặc biệt (1961-1965). Với chiến lược này, Mĩ đã trực tiếp can thiệp, đưa cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam, áp dụng cái gọi “Ấp chiến lược” nhằm tách lực lượng cách mạng khỏi dân. Bên cạnh đó, quan thầy Mĩ còn tăng cường trang bị cho quân đội Sài Gòn để chống lại Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến tranh cục bộ (1965-1968), theo đó Mĩ trực tiếp đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh đánh phá ra miền Bắc bằng các cuộc ném bom (Chiến dịch Rolling Thunder); Chiến lược “Tìm diệt và bình định” nhằm tiêu diệt quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1973). Với chiến lược này, Mĩ rút dần quân Mĩ, tăng cường vai trò của quân đội Sài Gòn, tiếp tục viện trợ, hỗ trợ cho chính quyền này bằng không quân, pháo binh. Không những thế Mĩ còn mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia. Sau Hiệp định Paris 1973, Mĩ buộc phải rút quân khỏi Việt Nam. Từ năm 1973 đến 1975 Hậu Việt Nam hóaVới chiến lược này vẫn tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài GònTuy nhiênsau khi Mĩ rút quân đội và viện trợquân đội Sài Gòn suy yếu nhanh chóng. Quân  dân Việt Nam Nam với Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc chiến ở Việt Nam trong suốt một phần tư thế kỷ luôn là đề tài quan trọng nhất của 5 đời tổng thống Mĩ. Đề tài Việt Nam đã chiếm thời gian và trí óc của không chỉ các tổng thống mà của cả những người dân thường, đội ngũ kỹ sư của các tổ hợp quân sự Hoa Kì. Người Mĩ đã phải bỏ ra nhiều công sức và tiền của để thiết kế những vũ khí hiện đại và phù hợp nhất cho cuộc chiến ở Đông Dương nói chung và chiến trường Việt Nam nói riêng. Những vũ khí hiện đại nhất mà Mĩ đã sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam gồm: Máy bay với 74 kiểu loại với nhiều thế hệ. Tên lửa có 12 loại, súng pháo có 17 kiểu loại, xe tăng thiết giáp gồm 18 loại; bom mìn có 14 loại, lựu đạn và đạn hoá học, bom cháy có 27 loại [4, tr. 1126-1127].

Trong lịch sử chiến tranh Hoa Kì, chưa bao giờ quân đội Mĩ lại huy động lực lượng quân đội một cách tổng lực và ào ạt đến thế. Thời kỳ 1968-1969 quân số  - ngụy tại miền Nam Việt Nam lên tới 1.152.000, trong đó có 535.000 quân Mĩ, 550.000 quân ngụy, 62.000 quân chư hầu. Trong số có 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn, tổng cộng là 103 tiểu đoàn lục quân Mĩ. Riêng bộ binh, Mĩ đã huy động gần 70% tổng số bộ binh trong quân đội. Quân đội các nước chư hầu của Mĩ gồm: khối quân sự SEATO (Hiệp ước Đông-Nam-Á), ANSUS (Hiệp ước liên minh Mĩ - Úc - Tân Tây Lan), một sư đoàn Pắc Chung Hy (Nam Triều Tiên). Một số đơn vị quân đội Mĩ từ Tây Âu và trang thiết bị từ khối NATO cũng được điều động sang Việt Nam [5, tr. 77].

Trong lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ quân đội Mĩ lại sử dụng số lượng bom đạn như trong chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1965 đến năm 1972, Mĩ đã ném xuống chiến trường Đông Dương 7.405.155 tấn bom đạn. Tính đến ngày 15-8-1973 con số này là 7.882.547 tấn, trong đó 3.770.000 tấn ném xuống miền Bắc Việt Nam; Số bom đạn mà không quân Mĩ đã sử dụng ở Đông Dương gấp 12 lần số lượng mà Mĩ dùng trong chiến tranh Triều Tiên (35.000 tấn), gấp 3,8 lần số lượng Mĩ sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai (2.075.244 tấn) [5, tr. 77].

Về chất độc hóa học, chưa bao giờ quân đội Mĩ lại sử dụng số lượng chất độc hóa học nhiều như trong chiến tranh Việt Nam. Trong suốt cuộc chiến, Mĩ đã rải 45.260 tấn chất độc hóa học xuống miền Nam Việt Nam, trong đó có 71 triệu lít da cam (dioxin), 338.000 tấn bom na-pan [5 tr. 77].

Về chi phí chiến tranh, 5 đời tổng thống Mĩ, điều hành 4 kế hoạch chiến lược thực dân mới và chiến tranh xâm lược, Mĩ đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam là 676 tỉ đôla [5, tr. 77].

Ngày 17 tháng 12 năm 1972, Tổng thống Mĩ R.Nixon ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc Việt Nam với tên gọi “Cuôc hành binh Linebachker II”, với mục tiêu gây sức ép buộc chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều khoản sửa đổi của Mĩ; đánh phá, hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm tê liệt ý chí chiến đấu, giảm thế và lực của quân và dân miền Bắc so với ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, đe doạ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới [6, tr. 788].

Lực lượng quân sự được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc huy động vào cuộc hành binh Linebachker II gần một nửa số máy bay chiến lược B52 của toàn nước Mĩ (193 trên tổng số 400 chiếc), xuất kích 663 lần chiếc. Gần một phần ba số máy bay chiến thuật của toàn nước Mĩ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần/chiếc. 1/4 số tàu sân bay của toàn nước Mĩ (6 trên tổng số 24 chiếc) cùng nhiều tàu chỉ huy - dẫn đường, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu rada, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu, tàu sửa chữa của hạm đôi 7 ở Thái Bình Dương. Đó là chưa kể 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số lượng lớn máy bay phục vụ như: máy bay gây nhiễu điện tử từ xa, máy bay trinh sát có người lái, không người lái, tầng thấp, tầng cao, máy bay chỉ huy, dẫn đường, liên lạc, cấp cứu…Mĩ đã đưa vào cuộc tập kích này đều là vũ khí thuộc loại hiện đại bậc nhất thời đó [7, tr. 617-618].

Kết quả, cuộc tập kích ồ ạt và tàn bạo của Mĩ đã thất bại, 81 máy bay bị bắn rơi trong 12 ngày đêm, trong đó có 34 pháo đài bay B-52 được cho là “niềm kiêu hãnh, bất khả xâm phạm của không lực Hoa Kỳ” (riêng Hà Nội bắn rơi 25 chiếc B-52), tỷ lệ bắn rơi 17% (34/193), 5 chiếc F-111A, 21 chiếc F-4C, 4 chiếc A6-A, 12 chiếc A-7, 1 chiếc 105-D, 2 chiếc RA-5C, 1 máy bay trực thăng, 1 máy bay trinh sát không người lái 147SC [8, tr. 26-27].

Với thất bại này, cái gọi là “Sự bất khả xâm phạm của không lực Hoa Kì” đã bị đánh bại ngay trên bầu trời Hà Nội, khiến cả thế giới phải hướng về Việt Nam với tất cả sự kinh ngạc, thán phục và tự hào. Sự thất bại của không lực Hoa Kì trong chiến dịch Linebachker II được du luận phương Tây gọi là “Trận Điện Biên Phủ trên không” đối với Mĩ, buộc Mĩ phải ký Hiệp định Pari, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

2.2. Nước Mĩ  thế giới sau chiến tranh Việt Nam

Theo những số liệu do chính phủ Mĩ công bố chính thức, tổng số thương vong của quân đội Mĩ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam tính từ tháng 12 năm 1961 đến tháng 1 năm 1973 là 349.459 người (gồm 45.937 người chết và 303.622 người bị thương) [9].

Lần đầu tiên trong lịch sử của Hoa Kì, thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đã ảnh hưởng sâu sắc đến nước Mĩ trên mọi phương diện: chính trị- tư tưởng, kinh tế, quân sự. Sự thất bại này đã làm cho các học thuyết chiến tranh, tư tưởng và quan điểm quân sự của Mĩ bị phá sản hoàn toàn, chiến lược toàn cầu của Mĩ cũng bị đảo lộn, lực lượng quân sự của Mĩ bị suy yếu. Tình hình đó buộc giới cầm quyền Mĩ phải xem lại toàn bộ học thuyết quân sự từ chiến lược, chiến thuật qua bài học Việt Nam [10, tr. 1131].

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng đến nước Mĩ rất nặng nề. Đặc biệt đối với cuộc sống của hàng triệu người dân Mĩ, họ mất lòng tin đối với chính phủ. Nhân dân trên khắp thế giới mất lòng tin đối với nước Mĩ. Hàng nghìn lính Mĩ đã chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, họ được huấn luyện và được lệnh giết bộ đội, du kích Việt Nam. Như một tác động phụ, họ cũng giết cả những người dân, trẻ em được coi là những người ủng hộ Việt cộng.

Trong tổng số trên 6 triệu người phục vụ trong các quân chủng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, khoảng 3 triệu người đã bị điều sang Việt Nam và sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, họ đã trở thành cựu binh. Ngoài những người đã bỏ mạng ở chiến trường, hàng chục ngàn người đã trở về Mĩ, biết rõ những tội ác của quân đội Mĩ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, họ đã buộc phải sống dưới bóng tối của cuộc chiến tranh mà Mĩ đã thua. Người ta tính có đến 700.000 cựu binh Mĩ tiếp tục bị những hội chứng của chiến tranh Việt Nam. Họ bị quấy rầy cả về thể chất, tinh thần, xã hội và nhiều vấn đề khác.

Trong hàng triệu cựu binh Mĩ thì 153.329 người bị thương nặng, phải nằm viện dài ngày, hàng ngàn người bị mù lòa, què quặt hoặc bị tê liệt do chiến tranh. Hàng ngàn người khác bị cưa chân tay hoặc bị tàn phế một phần hay toàn phần. 50 năm sau nước Mĩ vẫn chịu nỗi ám ảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng trăm ngàn quân nhân, sỹ quan, cố vấn Mĩ bị ung thư do tiếp xúc với chất độc da cam. Chính Lầu năm góc đã phải thú nhận có đến 20.000 Mĩ bị ảnh hưởng của loại hóa chất da cam mà quân đội Mĩ đã rải xuống miền Nam Việt Nam [11, tr. 1133].

Theo thống kê của Chính phủ Mĩ, có 15% tổng số cựu binh Mĩ (350.000) người đã bị giải ngũ một cách kém vinh dự. Họ có thể là không tuân lệnh và kết quả là bị đưa ra tòa án binh. Khoảng 300.000 người Mĩ khác là bạn bè của họ có thể bị mắc vào nạn ma túy. Nhiều cựu binh bị giải ngũ kém vinh dự, nghĩa là họ không được bảo dảm việc làm và không được xã hội tôn trọng [11, tr. 1133].

Nhiều cựu binh Mĩ trải qua cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, khi trở về họ mắc phải cái gọi là “rối loạn thần kinh sau chấn thương”, “cơn bệnh Việt Nam ”…Triệu chứng đó 50 năm sau vẫn còn dai dẳng khi cuộc chiến đã chấm dứt, Việt Nam và Mĩ đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện.

Hiện nay, ở Hoa Kì, chiến tranh Việt Nam vẫn là một trong những chương đen tối trong lịch sử. Nhiều cựu binh Mĩ vẫn chịu ảnh hưởng về tâm lý, sức khỏe từ cuộc chiến. Trong các học viện, trường đại hoc, viện bảo tàng, sách báo người Mĩ vẫn tiếp tục thảo luận về cuộc chiến với những góc nhìn ngày càng mang tính phê phán cuộc chiến của Mĩ ở Việt Nam.

Robert McNamara, ông là Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ dưới thời Tổng thống Kennedy và Johnson. Sau này nhìn lại cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt nam ông thừa nhận “Chúng ta đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng ta đã không hiểu lịch sử, văn hóa và động lực của người Việt Nam”.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Henry Kissinger, Ngoại trưởng Mĩ dưới thời Tổng thống Nixon, phát biểu vào năm 1975 “Chúng ta đã không thể giành chiến thắng vì không hiểu được ý chí và quyết tâm của đối phương”.

Noam Chomsky, nhà triết học và nhà phê bình người Mĩ, ông là một trong những học giả có tiếng nói mạnh mẽ phản đối chiến tranh, ông từng viết “Cuộc chiến tranh Việt Nam là một tội ác khủng khiếp và là một bài học mà nước Mĩ không chịu học”.

Chính sách can dự của Mĩ ngay từ đầu đã bị người Pháp phê phán. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ năm 1954, Pháp buộc phải ký Hiệp định Geneve, chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Đông Dương. Khi Mĩ can thiệp vào Việt Nam để thay thế vai trò của Pháp, nhiều tướng lĩnh, chính trị gia và chuyên gia Pháp đã có những lời khuyên cảnh báo Mĩ. Một trong những lời khuyên nổi tiếng là của tướng Rene de Gaulle đối với người Mĩ “Các ông đừng dính vào vũng lầy Việt Nam. Chúng tôi đã thử và thất bại. Các ông cũng sẽ không khá hơn đâu”. Ngoài ra, nhiều quan chức Pháp khác như cựu Thủ tướng Pierre Mendes France cũng cảnh báo rằng Mĩ không thể thắng trong một cuộc chiến tranh mà người dân Việt Nam có lòng yêu nước mãnh liệt và sẵn sàng chiến đấu đến cùng.

Tổng thống Pháp Charles de Gaulle từng khuyên Mĩ tránh can thiệp sâu vào Việt Nam, vì ông hiểu rằng lực lượng nước ngoài không thể chiến thắng trước một dân tộc mạnh mẽ. Năm 1964, ông tuyên bố “Nước Mĩ không thể áp đặt ý chí của mình lên một dân tộc quyết tâm giành độc lập”.

Bernard Fall, một sử gia quân sự người Pháp, nhà báo, học giả phương Tây sớm nhận ra rằng Mĩ sẽ thất bại. Năm 1965, ông viết “Nếu Mỹ tiếp tục chiến tranh theo cách này, họ sẽ lặp lại sai lầm của Pháp và thất bại”.

Ngoài người Pháp, nhiều chính trị gia, tướng lĩnh và học giả nước ngoài đã có những lời khuyên hoặc nhận xét về cuộc chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam.

Winston Churchill (Anh) đã khuyên và cảnh báo trước khi Mĩ can thiệp sâu vào Việt Nam “Mĩ đang đi sâu vào một cuộc chiến mà họ không thể thắng bởi vì đây không chỉ là một cuộc chiến tranh thông thường mà còn là một cuộc chiến tranh nhân dân”.

Wilfred Burchett (nhà báo người Úc), ông là một trong những phóng viên phương Tây hiếm hoi tác nghiệp tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Ông từng nhận định “Mĩ không hiểu rằng họ không chỉ đối đầu với quân đội Việt Nam mà còn với cả một dân tộc sẵn sàng chiến đấu đến cùng”.

Hiện nay, chính sách đối ngoại của Mĩ vẫn chịu ảnh hưởng lớn từ bài học chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là sự thận trọng khi can thiệp quân sự ở nước ngoài.

Ở châu Phi, Việt Nam là biểu tượng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước từng chịu ách đô hộ của thực dân phương Tây, họ xem chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh và đổi mới đất nước là nguồn cảm hứng để họ đứng lên giành độc lập và xây dựng đất nước.

Ở các nước châu Mĩ Latinh, các nước như Cuba, Venezuena, Nicaragua…xem Việt Nam như một biểu tượng chiến thắng chống đế quốc. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam đã cổ vũ, tác động đến phong trào cánh tả ở khu vực, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng của Mĩ.

3. Kết luận 

Nước Mĩ trước chiến tranh xâm lược Việt Nam tuy có lúc mạnh yếu khác nhau, đã từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh, quân đội Mĩ  khi cũng nếm mùi thất bại, những rốt cuộc nước Mĩ  quân đội Mĩluôn chiến thắng. Tư tưởng ngạo mạn của người Mĩ “đã tiến hành chiến tranh thì phải chiến thắng và chiến thắng triệt để ” thì đến Việt Nam quân đội Mĩ đã nếm mùi thất bại. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh phi nghĩa, dai dẳng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh mà nước Mĩ từng tham chiến. Đây là cuộc chiến tàn khốc, vô nhân đạo và để lại hậu quả nặng nề cho cả Việt Nam và nước Mĩ. Chiến tranh Việt Nam là cuộc đối đầu lịch sử giữa nước Mĩ, một siêu cường với Việt Nam, một đất nước nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, được sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới  kết thúc thắng lợi của nhân dânViệt Nam và sự thảm bại của quân đội Mĩ không chỉ  thắng lợi của chính nghĩa, của nhân dân Việt Nam mà đã ảnh hưởng sâu sắc đến nước Mĩ trên mọi phương diện: chính trị -  tưởng, xã hội, kinh tế,quân sự, dẫn đến sự đảo lộn quan trọng chính sách đối ngoại của nước Mĩ. Chiến thắng của Việt Nam đã và đang cổ vũ những dân tộc bị áp bức trên thế giới, họ xem chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ và sự nghiệp đổi mới đất nước là nguồn cảm hứng để họ đứng lên giành độc lập và xây dựng đất nước.

 

Tài liệu tham khảo

[1]  Nguyễn Duy Bính  (2005), Cuộc chiến tranh Việt Nam (nhìn từ lịch sử Hoa Kỳ), in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam (30/4/1975-30/4/2005), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 1124.

[2] Nhuận Vũ (1981), Những bế tắc của Lầu năm góc “ Sau Việt Nam”, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

[3] Tập san Quân sự Hoa Kì, tháng 7/1972.

[4]  Nguyễn Duy Bính (2005), Cuộc chiến tranh Việt Nam (nhìn từ lịch sử Hoa Kỳ), trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam (30/4/1975-30/4/2005), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 1126-1127.   

[5] Việt Nam con số và sự kiện (1945-1989), NXB Sự thật, Hà Nội, 1990, tr. 77.

[6]  Nguyễn Duy Bính (2022), Chiến dịch phòng không Hà Nội- Hải Phòng – Bối cảnh lịch sử, trong kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Chiến thắng “ Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không 1972” Sức mạnh Việt Nam và tầm vóc thời đại, Bộ Quốc Phòng - Ban Tuyên Giáo Trung ương - Bộ Công an - Thành ủy Hà Nội tổ chức, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 788.

[7] Nguyễn Duy Bính, Nguyễn Văn Tùng (2012), Cuộc tập kích của không quân chiến lược Mĩ đối với thủ đô Hà Nội qua các tài liệu, sách báo Mĩ và phương Tây, trong kỷ yếu: Chiến thắng “ Hà Nội – Điên Biên Phủ trên không ” Tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam do Bộ Quốc phòng - Ban Tuyên giáo Trung ương - Thành ủy-Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 617-618.

[8] Lưu Trọng Lân (2003), “Điện Biên Phủ trên không”- Chiến thắng của ý trí  trí tuệ Việt Nam, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr. 26-27.

[9] Tạp chí Tin tức Mĩ & Thế giới, ngày 5/2/1973.

[10] Nguyễn Duy Bính (2005), Cuộc chiến tranh Việt Nam (nhìn từ lịch sử Hoa Kỳ), trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam (30/4/1975-30/4/2005), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 1131.

[11] Nguyễn Duy Bính (2005), Cuộc chiến tranh Việt Nam (nhìn từ lịch sử Hoa Kỳ), trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam (30/4/1975-30/4/2005), NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 1133.

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516