Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcNHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ TRẦN QUÝ KIÊN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ TRẦN QUÝ KIÊN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Thứ tư, 20 Tháng 8 2025 19:20
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1).

NGUYỄN VĂN BIỂU 

Viện Sử học,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 

Nhận bài 20/7/2025. Sửa chữa xong 05/8/2025. Duyệt đăng 10/8/2025.

Tóm tắt:

The August Revolution of 1945 was a monumental historical event that marked a great turning point in the history of Vietnam in the 20th century. Under the leadership of the Communist Party and President Hồ Chí Minh, for the first time in the history of Vietnam and other colonies and semi-colonies worldwide, “a 15-year-old Party successfully led the revolution and seized nationwide power” (Hồ Chí Minh). This resounding victory was achieved through the sacrifices of hundreds and thousands of steadfast and loyal Party leaders who devoted their lives to the independence and freedom of the Fatherland and the happiness of the people. Among these outstanding individuals was Trần Quý Kiên (former Standing Member of the Northern Region Party Committee, former Secretary of the Hanoi Party Committee), a loyal and unyielding communist who played significant roles and made notable contributions to the overall success of the August Revolution of 1945.

Keywords: August Revolution, Quang Trung war zone, Ninh Bình.

 

1. Đặt vấn đề

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều thanh niên yêu nước của dân tộc ta đã tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, từ khi Đảng mới ra đời và trở thành những cán bộ lãnh đạo tận tụy, tài năng - những đảng viên trung kiên lớp đầu tiên của Đảng, những người đã trọn đời hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong số những con người ưu tú đó có Trần Quý Kiên (1911-1965), Bí thư Thành ủy Hà Nội, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ - người cộng sản kiên trung, bất khuất, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và trọn đời hy sinh cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân; người có nhiều cống hiến đặc biệt quan trọng trong thời điểm năm 1945, trong phạm vi bài viết này chúng tôi tập trung làm sáng tỏ thêm một số nét khái quát về hoạt động và cống hiến của ông thời kỳ trước và trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945). 

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Một số hoạt động của đồng chí Trần Quý Kiên trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra thành công

Trước ngày Nhật đảo chính Pháp, mặc dù thực dân Pháp cố gắng bưng bít nhưng tin tức vẫn truyền đến tới nhà tù Sơn La, là nơi đồng chí Trần Quý Kiên và hàng trăm tù chính trị đang bị giam giữ ở đây, trong đó có nhiều đồng chí sau là những lãnh đạo chủ chốt của Đảng và nhà nước ta.

Trước áp lực đấu tranh hợp lý, hợp tình của tù chính trị ở Sơn La, trước khí thế cách mạng ngày càng dâng lên trong cả nước, chiều 17-3-1945, giám ngục Lơbông buộc phải thông báo lệnh di chuyền. Âm mưu của thực dân Pháp là chuyển toàn bộ tù chính trị ở Sơn La đến các trại giam ở Nghĩa Lộ, tuy bên ngoài y tuyên bố với ban đại diện trả tự do cho tù chính trị. Ban lãnh đạo nhà tù nhanh chóng dự kiến các phương án giải thoát tù nhân.

Ngày 18-3-1945, vào lúc 6 giờ sáng đoàn tù chính trị Sơn La theo đường Chiềng Lề - Tà Bú - Tú Lệ hành quân. Đi theo đoàn có giám ngục Lơbông và một tốp nhỏ lính khố xanh. Dọc đường, mỗi lúc nghỉ lại đoàn tù chính trị được nhân dân các dân tộc Sơn La, Yên Bái tận tình giúp đỡ. Đến đỉnh đèo Khau Phạ, khi nghe tin tại Nghĩa lộ các tù nhân đã phá căng tự giải thoát, giám ngục Lơbông và tên Tây đoan đã bỏ chạy để cho đoàn tù hoàn toàn tự do, gần 200 tù nhân đã tìm cách bắt liên lạc và tỏa về các địa phương[1], trong đó có đồng chí Trần Quý Kiên. Như đồng chí Trần Quý Kiên đã viết: “Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp anh em tù chính trị (nhà lao Nghĩa Lộ, Yên Bái) phá nhà lao Nghĩa Lộ, lúc ấy tôi ốm nặng mới khỏi nên không tham gia được ý kiến. Các đồng chí vượt ngục tôi cũng vượt ngục không đi cùng anh em nên mất liên lạc phải về nhà[2].

Sau khi đồng chí Trần Quý Kiên cùng nhiều đồng chí khác thoát khỏi nhà tù Sơn La đã kịp thời về cùng nhiều đồng chí khác lãnh đạo phong trào cách mạng ở các địa phương. Tháng 4/1945, đồng chí Trần Quý Kiên bắt liên lạc được với đồng chí Trần Quốc Hoàn[3] (Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ)[4], đồng chí được bổ sung vào Xứ ủy Bắc Kỳ, đang lúc phong trào cách mạng đang lên rất cần đến những cán bộ ưu tú của Đảng vừa mới bị tù đày trong các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò thoát được ra ngoài trở về với cách mạng.

Sau khi thoát khỏi nhà lao Nghĩa Lộ, đầu tháng 4/1945, đồng chí Trần Quý Kiên đã bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ. Đồng chí được Xứ ủy Bắc Kỳ phân công là Xứ ủy viên đại diện cho Xứ ủy Bắc Kỳ về lãnh đạo phong trào cách mạng tỉnh Ninh Bình trong Chiến khu Hòa-Ninh-Thanh. Sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình viết: “Tháng 5/1945, đồng chí Trần Quý Kiên đại diện Xứ ủy Bắc Kỳ về Ninh Bình triệu tập Hội nghị (họp tại thôn Sải, xã Sơn Lai, huyện Nho Quan cũ), thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm 6 đồng chí[5], do đồng chí Lê Thành (tức Nguyễn Văn Mộc) làm Bí thư. Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá phong trào và quyết định phát động phong trào chống thuế rộng rãi, mạnh mẽ. Nơi nào có điều kiện thì tổ chức đấu tranh chống thu thuế, chống thu thóc lẫm, nơi nào cơ sở cách mạng còn yếu thì phát động quần chúng xin khất thuế, tạo điều kiện tiến lên chống thuế”[6].

Hội nghị đã cử thêm đồng chí Lương Nhân (một cán bộ vừa ở tù ra) phụ trách vấn đề quân sự. Cơ quan Tỉnh ủy đặt trụ sở tại khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu. Sau khi kiểm điểm rút kinh nghiệm phong trào phá kho thóc cứu đói đã phát động phong trào chống thuế trong toàn tỉnh. Các cơ sở cách mạng ở tổng Quán Vinh, La Mai tổ chức mít tinh, mời tổng lý, kỳ hào tham dự để họ hiểu chủ trương chống thuế của Việt Minh mà không thu thuế. Lực lượng tự vệ ở Tri Hối (Gia Viễn) bắt giữ lý trưởng khi hết vụ thuế mới cho về. Việt Minh ở các tổng Tam Đồng, Văn Luận (Nho Quan) thu sổ sách, triện của lý trưởng để không thể thu được thuế. Ở Quỳnh Lưu, tự vệ vây ráp, để quần chúng chất vấn khi Tri phủ Nho Quan về đôn đốc thuế[7].

Cuối tháng 5/1945, đồng chí về thị sát tình hình ở huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình) nắm thực lực phong trào cách mạng chuẩn bị cho khởi nghĩa. Đồng chí Trần Quý Kiên cùng với đồng chí Đặng Hữu Dân làm việc và ăn nghỉ tại nhà ông Nguyễn Văn Phác, thôn Yên Ninh. Ngôi nhà này là nơi bàn bạc và đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh cách mạng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, là nơi quyết định ngày giờ đánh chiếm, giành chính quyền huyện Yên Khánh[8].

Sau chuyến thị sát của đồng chí Trần Quý Kiên, phong trào cách mạng ở Yên Khánh có bước phát triển mạnh mẽ và chuyển sang giai đoạn mới, công tác chuẩn bị các điều kiện đấu tranh giành chính quyền diễn ra khẩn trương, các cuộc đấu tranh của nhân dân có lực lượng thanh niên tự vệ làm nòng cốt. Tài liệu tuyên truyền chuyển về Phương Du, Yên Khang ngày một nhiều, các thành viên trong các đoàn thể cứu quốc xuống tận thôn xóm để tuyền truyền vận động nhân dân: “Kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội” khi thời cơ cách mạng đã đến[9].

Giữa năm 1945 ở các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa (thuộc Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh[10]), và tỉnh Sơn La, phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ và Đảng bộ các địa phương có bước phát triển mạnh mẽ: “… Biểu tình võ trang hàng hai ba ngàn người kéo đi đánh chiếm kho thóc trong các đồn điền Tây phản động và các kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo… Những cuộc hoạt động của các đội du kích cách mạng nổi lên phá đường giao thông của địch, đánh chiếm các châu, phủ, huyện, đồn ải, tịch thu võ khí, tiễu trừ Việt gian, lưu manh và thành lập chính quyền nhân dân địa phương[11].

Từ ngày 15-20/4/1945, tại Hiệp Hòa (Bắc Giang), Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chính chủ trì. Trên cơ sở nhận định tình hình thế giới, ở Đông Dương và Bắc Kỳ, hội nghị đã xác định nhiệm vụ cần kíp lúc này là: Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị đã quyết định thành lập 7 Chiến khu trên những địa bàn chiến lược quan trọng trong cả nước, với yêu cầu là các chiến khu này phải được đánh thông liên lạc với nhau, trong đó, chú trọng xây dựng Chiến khu Quang Trung trên địa bàn ba tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa[12].

Ngày 15/5/1945, thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, hội nghị thành lập Chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh) đã họp tại thôn Sầy (tại nhà ông Đinh Văn Ngoạn, một hội viên cứu quốc, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình). Đồng chí Văn Tiến Dũng, Ủy viên Thường vụ Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Đại biểu Xứ ủy Bắc Kỳ là đồng chí Trần Tử Bình, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy cùng các đồng chí đại diện các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa[13] tiến hành họp bàn củng cố chiến khu. 

Dưới sự chủ trì của đồng chí Văn Tiến Dũng và các đại biểu đã thảo luận về vị trí của chiến khu Quang Trung, tức chiến khu Hòa - Ninh - Thanh được chính thức đổi tên thành, xác định nhiệm vụ của chiến khu trong công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Ủy viên Thường trực Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo Chiến khu Quang Trung[14]. Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu được xác định làm căn cứ địa trung tâm của chiến khu.

Theo Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng (ngày 15/8/1952), đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Được Đảng chỉ định làm Bí thư khu Quang Trung gồm các tỉnh Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa - Sơn La và Lai Châu, thay đồng chí Trần Tử Bình”[15]. Như vậy, căn cứ vào tài liệu này thì có thể biết thêm được là khi thành lập Chiến khu đồng chí Văn Tiến Dũng người trực tiếp chỉ đạo nhưng sau đó do đồng chí Văn Tiến Dũng[16] bận nhiều công việc ở Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ nên những công việc ở đây được đồng chí Văn Tiến Dũng giao lại cho đồng chí Trần Quý Kiên chỉ đạo cho được trực tiếp, kịp thời.

Điều này cũng khớp với hồi ký “Đi theo con đường của Bác” đồng chí Văn Tiến Dũng đã khẳng định: “Ủy ban quân sự cách mạng Chiến khu Quang Trung (còn gọi là Ban chỉ đạo) gồm 5 người: anh Ty (tức Trần Quý Kiên, tức Đinh Xuân Nhạ), mới được Trung ương tăng cường, 3 đồng chí Bí thư của 3 tỉnh và tôi phụ trách chung. Nhưng vì còn có trách nhiệm thường trực của Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ, nên tôi không ở liền tại chiến khu được và đồng chí Ty (Trần Quý Kiên) được cử là Phó Thường trực. Tôi đi đi, về về và vẫn phải trụ ở địa bàn huyện Yên Phong, trong mấy xã bên bờ sông Như Nguyệt. Có ở Yên Phong, tôi mới tiện gặp các anh Lê Thanh Nghị và Trần Đăng Ninh để trao đổi ý kiến, họp bàn xin chỉ thị Trung ương và quyết định những công việc cần kíp được nhanh chóng. Anh Trần Đăng Ninh ở Đa Phúc, anh Lê Thanh Nghị ở Hiệp Hòa. Ba huyện thuộc ba tỉnh Bắc Ninh, Phúc Yên, Bắc Giang chỉ cách nhau con sông Như Nguyệt (tức sông Cầu)”[17].

Theo sách “Chiến khu Quang Trung” (bản tái bản năm 1996) viết cụ thể thêm chi tiết hơn về thời gian đồng chí Trần Quý Kiên lãnh đạo ở Chiến khu Quang Trung: “… tháng 6/1945, do đồng chí Văn Tiến Dũng phải làm việc trong Thường trực Ủy ban quân sự cách mạng nên Xứ ủy Bắc Kỳ đã tăng cường cho Ban Chỉ đạo chiến khu đồng chí Ty (tức Đinh Xuân Nhạ, Trần Quý Kiên), Xứ ủy viên để công tác được thường xuyên hơn nữa ở chiến khu”[18].

2.2. Hoạt động và cống hiến của đồng chí Trần Quý Kiên trong những ngày Cách mạng Tháng Tám

Giữa lúc cao trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân ta đang cuồn cuộn dâng lên trên hầu khắp ba kỳ Bắc, Trung và Nam. Tình hình thế giới và khu vực đang có sự phát triển mau lẹ, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền cả nước đã chín muồi. “Trong nước ta, khí thế cách mạng cũng lên ngùn ngụt chưa từng có. Không chỉ riêng ở các vùng giải phóng, các chiến khu, mà ở tất cả mọi nơi từ nông thôn tới thành thị ở bến xe, bến tàu, giữa chợ... đâu đâu người ta cũng công khai nói tới độc lập, công khai nói tới Việt Minh, công khai nói tới đánh giặc cứu nước, chế giễu chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim do Nhật nặn ra từ sau cuộc đảo chính…”[19].

Trước tình hình khẩn cấp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương cấp tốc triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Đại biểu của các đảng bộ Bắc, Trung, Nam, các chiến khu, các vùng giải phóng, kể cả một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài đã mau lẹ về “Thủ đô cách mạng” để dự cuộc hội nghị lịch sử trọng đại này.

Nói về sự kiện lịch sử trọng đại này, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã viết lại trong hồi ký như sau: “Tôi (Văn Tiến Dũng) cùng một số đại biểu của Xứ ủy và của chiến khu Quang Trung (đại diện là đồng chí Dương Văn Ty tức Trần Quý Kiên) cấp tốc lên đường. Bấy giờ là đầu tháng 8. Còn đang mùa mưa lũ. Sông, suối, nước còn mênh mông, đi lại rất khó khăn, thêm nữa dẫu sao ở dọc đường một số nơi giặc Nhật và tay sai vẫn còn hoạt động bắt bớ”[20].

Trong lúc đồng chí Văn Tiến Dũng, đồng chí Trần Quý Kiên đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, trước sự chuyển biến mau lẹ của thời cuộc. Mặc dù chưa nhận được chỉ thị của Trung ương, đồng thời không chờ cho đến khi các đồng chí Văn Tiến Dũng, Trần Quý Kiên và các đồng chí trong Xứ ủy đi họp về, các đồng chí trong Xứ ủy đã nhanh chóng họp bàn để chuẩn bị khởi nghĩa: “Được tin phát xít Nhật đầu hàng, chiều 15/8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ họp phiên khẩn cấp tại làng Vạn Phúc, một địa điểm trong ATK của Xứ ủy (Hà Đông). Tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ đạo của Trung ương thể hiện trong Chỉ thị ngày 12/3/1945, Xứ ủy nhận định thời cơ khởi nghĩa đã đến. Nhằm bảo đảm thắng lợi một cách vững chắc, Xứ ủy quyết định lãnh đạo khởi nghĩa ở những nơi có điều kiện, chắc thắng để thăm dò thái độ của phát xít Nhật”[21]. Ngày 15/8 kỳ bộ Việt Minh ra thông báo khẩn cấp cho các địa phương kịp thời nổi dậy giành chính quyền.

Ngày 17/8/1945, đồng chí Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Trần Tử Bình đem lệnh tổng khởi nghĩa về tới căn cứ địa Quỳnh Lưu. “Hai đồng chí Văn Tiến Dũng và Ty (Dương Văn Ty tức Trần Quý Kiên) đi dự đại hội Tân Trào chưa về kịp. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Mộc (là người được đồng chí Trần Quý Kiên, thay mặt Xứ ủy cử làm Bí thư lâm thời Tỉnh ủy Ninh Bình, như đã nói ở sự kiện tháng 5/1945, khi đồng chí Trần Quý Kiên về Ninh Bình) liền triệu tập gấp các Tỉnh ủy viên và đồng chí phụ trách quân sự của tỉnh họp tại làng Sải tổng Quỳnh Lưu, bàn việc phát động khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Hội nghị chủ trương tập trung lực lượng đánh chiếm một huyện lỵ trước, giành lấy tháng lợi đầu tiên để động viên quân chúng nhân dân các huyện khác nổi dậy”[22].

Sau khi đồng chí Trần Quý Kiên, Văn Tiến Dũng và các đồng chí khác đi dự Đại hội toàn quốc của Đảng trên đường về gặp mưa lũ, nước tràn ngập nên ảnh hưởng đến tiến độ quay trở lại Hà Nội và Chiến khu Quang Trung để lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương theo tinh thần chủ trương của Trung ương. Trong hồi ký “Đi theo con đường của Bác” đồng chí Văn Tiến Dũng có nói chi tiết về việc này: “Vẫn sông suối, mưa lũ tràn ngập, biết bao nhiêu trở ngại. Tôi về tới Yên Phong gặp ngay nữ đồng chí Minh - cán bộ phụ trách huyện. Cũng vừa lúc các đồng chí ở nhà do được chuẩn bị kỹ từ trước đã kịp thời lãnh đạo nhân dân nổi dậy cướp chính quyền ở huyện. Nghe tình hình và dặn dò chị Minh mấy việc để củng cố, giữ vững chính quyền, ổn định tình hình, anh Ty (Trần Quý Kiên) và tôi (Văn Tiến Dũng) về thẳng Hà Nội. Hà Nội cũng đã xong. Tôi gặp anh Nguyễn Khang ở Bắc Bộ phủ. Trao đổi vắn tắt tình hình với anh, tôi lại cấp tốc lên đường, xuống thẳng Ninh Bình. Cũng như nhiều nơi khác, Ninh Bình đã giành được chính quyền trọn vẹn”[23].

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh Ninh Bình vừa kết thúc thắng lợi thì tối 21/08/2025 đồng chí Văn Tiến Dũng, Ủy viên Thường trực Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ và đồng chí Ty (Dương Văn Ty tức Trần Quý Kiên) về đến Ninh Bình theo sự phân công của trên để trực tiếp phụ trách công cuộc xây dựng chính quyền cách ở đây[24]. Đồng chí Văn Tiến Dũng viết: “Nhận được điện báo, các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đã cử anh Lương Nhân và một số đồng chí khác, trong đó có chị Nguyễn Thị Hòa - Ủy viên Tỉnh ủy lâm thời Đảng bộ tỉnh Ninh Bình chờ đón chúng tôi ở Đoan Vĩ”[25].

Ngày 22/8/1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, có đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Ty (Dương Văn Ty tức Trần Quý Kiên) tham dự, được triệu tập tại Gián Khẩu. Hội nghị bàn việc xây dựng chính quyền các cấp, mở rộng và củng cố các đoàn thể Việt Minh, phát triển lực lượng vũ trang, chăm lo đời sống nhân dân và sẵn sàng đối phó với bọn phản động các loại[26]

Chiều ngày 25/8/1945, trong cuộc mít tinh gồm hơn hai vạn người đại diện, các giới, các địa phương tham dự tổ chức tại Tỉnh lỵ Ninh Bình, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã ra mắt đồng bào. Đồng chí Văn Tiến Dũng trịnh trọng tuyên bố tỉnh Ninh Bình đã được giải phóng hoàn toàn, từ nay toàn bộ chính quyền trong tỉnh về tay nhân dân. Cuối buổi mít tinh, trung đội nữ tự vệ chiến đấu của căn cứ địa Quỳnh Lưu, với những súng trường trong tay, lưỡi lê tuốt trần đã thao diễn quân sự trước sự ngạc nhiên và niềm hân hoan tự hào của toàn thể đồng bào. Như vậy, là chưa đầy một tuần lễ, tỉnh Ninh Bình đã cùng với Hòa Bình, Thanh Hóa, toàn Chiến khu Quang Trung đã khởi nghĩa giải tán chính quyền bù nhìn thân Nhật, thành lập xong hệ thống chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở, đã làm chủ địa phương của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tổng khởi nghĩa xong, sau khi đồng chí Trần Quý Kiên cùng đồng chí Văn Tiến Dũng lãnh đạo nhân dân các tỉnh giành chính quyền xong thì ở Sơn La, Lai Châu là những tỉnh giành chính quyền cách mạng chưa được đồng đều, có nơi còn chưa giành được chính quyền. Đồng chí Trần Quý Kiên với tên gọi thời điểm này là Dương Văn Ty lại được Đảng giao nhiệm vụ mới là “chỉ đạo khởi nghĩa ở Sơn La và Lai Châu”. Đồng chí Trần Quý Kiên viết: “Tổng khởi nghĩa xong vào khoảng cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, đồng chí Văn Tiến Dũng về thay và tôi (Trần Quý Kiên) có nhiệm vụ đi Sơn La và Lai Châu gây dựng cơ sở Đảng, tổ chức quần chúng, tổ chức chính quyền”[27]. Trong sách “Đi theo con đường của Bác” đồng chí Văn Tiến Dũng đã viết: “Sau khi giành được chính quyền ở Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, chúng tôi (Trần Quý Kiên, Văn Tiến Dũng) còn được trao nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa ở Sơn La và Lai Châu. Anh Ty (tức Dương Văn Ty - Trần Quý Kiên) được phân công lên hai tỉnh đó. Anh đã kịp tới Sơn La…”[28].

Như vậy, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Quý Kiên, nhiều chủ trương của Đảng được kịp thời đến với nhân dân, nhiều khó khăn được kịp thời giải quyết… cuộc tổng khởi nghĩa cũng nổ ra rất kịp thời và thành công rực rỡ ở các tỉnh Hòa, Ninh, Thanh trong Chiến khu Quang Trung. Khí thế quần chúng mạnh như vũ bão. Công việc chỉ huy, chỉ đạo tại chỗ của các cấp ủy, các đồng chí ta hết sức linh hoạt vững vàng. Nhưng yếu tố cơ bản thắng lợi phải tính đến tất cả công việc xây dựng và chuẩn bị vô cùng gian khổ, khó khăn và cũng vô cùng bền bỉ, sáng tạo trong suốt cả thời kỳ vừa qua. Sở dĩ các nơi trong tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa đã biết kịp thời nổi dậy, tổng khởi nghĩa, thậm chí có nơi chưa kịp nhận được chỉ thị của trên nhưng nghe được tin nơi này nơi kia khởi nghĩa cũng đều nhanh chóng lãnh đạo quần chúng chớp lấy thời cơ, giành chính quyền. Chính là vì đã có một mục tiêu thống nhất và sự chuẩn bị kỹ từ trước. Như vậy, có thể thấy rằng ở Chiến khu Quang Trung, dưới sự lãnh đạo của các đồng chí trong ban lãnh đạo chiến khu, các đồng chí trong ban cán sự các Tỉnh ủy Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa, việc giành chính quyền đã đạt được thắng lợi rực rỡ và mau lẹ.

3. Kết luận

Dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, các đồng chí lãnh đạo của Chiến khu Quang Trung như Văn Tiến Dũng, Trần Quý Kiên, Trần Tử Bình… đã lãnh đạo và khéo léo vận dụng linh động kịp thời những thay đổi của thời cuộc khi ấy đã lãnh đạo nhân dân Ninh Bình, Hòa Bình có sự phối hợp của Đảng bộ Hà Đông, Hà Nam… các tầng lớp nhân dân trong Chiến khu Quang Trung đã nhất tề nổi dậy lật đổ chính quyền phát xít, thực dân và phong kiến tay sai, thành lập chính quyền nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Trần Quý Kiên cùng nhiều đồng chí khác đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ, Chiến khu Quang Trung, các Tỉnh ủy các tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.

Có nhiều ý kiến đánh giá muốn hạ thấp vai trò của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò và sự thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám; về sự lãnh đạo của Đảng đã nói cuộc khởi nghĩa thành công là một sự ăn may. Thực ra, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công là cả một quá trình vĩ đại của Đảng ta “mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[29]. Nói Cách mạng Tháng Tám năm 1945 theo tiêu chuẩn “máu đổ nhiều hay ít” cũng không đúng. Ở trong hoàn cảnh phức tạp ấy, cuộc cách mạng càng đổ máu ít mà thành công lớn càng tỏ rõ sự lãnh đạo khôn khéo và sáng suốt của Đảng ta.

 



[1]) Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2020), Địa chí Sơn La, Quyển I, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 576.

 

[2]) Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên ngày 15-8-1952, lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 10.

 

[3]) Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên ngày 15-8-1952, lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 8. Đồng chí Trần Tử Bình, Trần Quốc Hoàn (thoát ngục tháng 3-1945).

 

[4]) Trần Minh Trưởng (chủ biên, 2022), Trần Quốc Hoàn tiểu sửNXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 93. Sau Hội nghị Xứ ủy Bắc Kỳ (tháng 4/1945), đồng chí Trần Quốc Hoàn được Trung ương Đảng chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.

 

[5]) Nguyễn Văn Mộc, Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Văn Ất, Phạm Văn Hồng, Phan Long, Đặng Văn Vệ.

 

[6]) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (2023), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, tập 1 (1930 - 1975), (tái bản có sửa chữa, bổ sung), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 72-73.

 

[7]) Cuộc đấu tranh phá kho thóc cứu đói, chống thuế từ tháng 3 đến tháng 5-1945 đã diễn ra sôi nổi và giành được nhiều thắng lợi, cán bộ Việt Minh được bồi dưỡng và trưởng thành, quần chúng cách mạng được tập dượt, giác ngộ. Đây là cơ sở thúc đẩy phong trào kháng Nhật ở Ninh Bình ngày một tiến lên, dẫn theo Địa chí Ninh BìnhNXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2010, tr. 417.

 

[8]) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Yên Khánh (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Khánh (1945-2000)NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 35-36.

 

[9]) Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện ủy Yên Khánh (2003), Lịch sử Đảng bộ xã Khánh Hòa (1947-2022).

 

[10]) Chủ trương của Trung ương thành lập chiến khu trên địa bàn Hòa - Ninh - Thanh, nơi có vị trí chiến lược quan trọng nói liền Việt Bắc, Tây Bắc với đồng bằng Bắc Bộ, nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ. Ngày 18/01/1945, đồng chí Hoàng Quốc Việt chỉ thị cho đồng chí Vũ Thơ  (Tỉnh ủy Hòa Bình) mời các đồng chí lãnh đạo trong Ban Cán sự Đảng tỉnh Ninh Bình và trong Tỉnh ủy Thanh Hóa về họp ở Quỳnh Lưu để bàn về việc lập chiến khu và chuẩn bị đón đơn vị Nam tiến đi qua. Đồng chí Hoàng Quốc Việt hẹn mươi hôm nữa cũng sẽ vào Quỳnh Lưu để chính thức tuyên bố thành lập chiến khu dẫn theo: Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1990), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.30. 

 

[11]) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập (tập 7)NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 388.

 

[12]) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập (tập 7), Sđd, tr. 391. 

 

[13]) Đại biểu tỉnh Hòa Bình là các đồng chí: Phan Lang, Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh; Vũ Thơ, Phó Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh. Đại biểu tỉnh Ninh Bình là đồng chí: Nguyễn Văn Mộc, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời; Lương Nhân cán bộ quân sự của tỉnh. Đại biểu tỉnh Thanh Hóa là các đồng chí: Lê Chủ, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy (thay mặt đồng chí Bí thư Tố Hữu đang vào các tỉnh phía nam Thanh Hóa để tổ chức Xứ ủy lâm thời Trung Kỳ) dẫn theo: Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1990), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 57-58.

 

[14]) Các đồng chí Phan Lang, Bí thư Ban Cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình, Nguyễn Văn Mộc, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Ninh Bình và Lê Chủ, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, đều được bầu làm Ủy viên ban chỉ đạo. Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1990), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 59.

 

[15]) Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên ngày 15-8-1952, lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 8. Các nguồn tài liệu ghi không nói đến Sơn La và Lai Châu, ở đây có thể phạm vi ảnh hưởng, lãnh đạo của Chiến khu Quang Trung với các tỉnh này và bản thân sau đó đồng chí Dương Văn Ty (tức Trần Quý Kiên) cũng là người được cử lên lãnh đạo hai tỉnh này sau cách mạng tháng 8-1945. 

 

[16]) Trong hồi ký nhiều chỗ viết là “anh Nhạ” hay “anh Ty”, theo cách gọi thân mật của đồng chí Văn Tiến Dũng về đồng chí Trần Quý Kiên, bởi tên gọi Trần Quý Kiên sau đó mới được dùng phổ biến đến bây giờ. Trong hồi ký Đi theo con đường của Bác đồng chí Văn Tiến Dũng nhiều lần nhắc đến việc được đồng chí Trần Quý Kiên kết nạp ông vào Đảng: “… anh Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên) - người đã tổ chức tôi vào Đảng…” (Văn Tiến Dũng, Đi theo con đường của Bác, Sđd, tr. 172). Khi ấy (năm 1938), đồng chí Trần Quý Kiên đang giữ Bí thư Thành ủy Hà Nội, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ là cấp trên kết nạp và bồi dưỡng đồng chí Văn Tiến Dũng.

 

[17]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 210-211.

 

[18]) Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1996), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 70.

 

[19]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 214.

 

[20]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 215.

 

[21]) Lịch sử Đảng bộ Hà Sơn Bình, tập 1 (1926-1945), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Sơn Bình xuất bản, 1986, tr. 338.

 

[22]) Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1996), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 102-103.

 

[23]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.215.

 

[24]) Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1996), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 107-108.

 

[25]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 219-220.

 

[26]) Bộ Tư lệnh Quân khu 3 (1996), Chiến khu Quang Trung, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.108.

 

[27]) Lý lịch của đồng chí Trần Quý Kiên ngày 15-8-1952, lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 8.

 

[28]) Đại tướng Văn Tiến Dũng (2004), Đi theo con đường của Bác, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 221.

 

[29]) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập (tập 12), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 19.

 

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516