Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcVẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thứ tư, 20 Tháng 8 2025 19:32
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1).

ĐÀO THỊ HẰNG 

Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh

Nhận bài ngày 02/7/2025. Sửa chữa xong 20/8/2025. Duyệt đăng 22/8/2025.

Abstract

The principle of universal connection in materialist dialectics asserts that all things and phenomena are interconnected and exert mutual influence. In the context of private economic development, applying this principle requires a clear understanding of the relationships and interactions between various factors and sectors of the economy. This awareness enables policymakers to make appropriate decisions that ensure harmonious and sustainable growth. The article proposes several solutions for applying the principle of universal connection of Marxist-Leninist philosophy to the development of the private economy in Vietnam today.

Keywords: Application, principle of universal connection, Marxist-Leninist philosophy, private economy.

1. Đặt vấn đề

Toàn cầu hóa  hội nhập kinh tế đang là xu thế của thời đại, nó diễn ra mạnh mẽ ở khắp các châu lục, chi phối đời sống của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới và bên cạnh đó hệ quả tất yếu của kinh tế toàn cầu hóa  nền kinh tế của các nước ngày càng thắt chặt lại. Gần 30 năm qua, kể từ khi bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu lớn, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước không những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin và có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc. Trong tiến trình phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để từng bước hoàn thiện tư duy, nhận thức về vị thế, vai trò và tầm quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân (KTTN). Với những chủ trương, chính sách đổi mới thiết thực, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đến nay, KTTN đã ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật: là nhân tốđóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế  tiến bộ  hội; tạo việc làmgiảm nghèocải thiện điều kiện sống, tăng trưởng bền vững và toàn diện ở Việt Nam.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của Triết học Mác-Lênin

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật, phản ánh sự tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Nguyên lý này khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ với nhau, không tồn tại một cách độc lập, biệt lập hay tách rời mà đều chịu sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất của sự liên hệ phổ biến này được thể hiện qua các đặc điểm sau:

2.1.1. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến

Điều này thể hiện ở việc mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong một hệ thống liên kết chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ đó  thể  mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, mối liên hệ hữu hình hoặc vô hình nhưng không có sự vật hay hiện tượng nào tồn tại một cách hoàn toàn tách biệt khỏi các sự vật và hiện tượng khác. Sự tồn tại và phát triển của mỗi sự vật đều là kết quả của sự tương tác giữa nhiều yếu tố khác nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: Một hệ sinh thái rừng bao gồm nhiều yếu tố như cây cối, động vật, vi sinh vật và môi trường xung quanh. Các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: cây cối cung cấp thức ăn và nơi ở cho động vật, động vật lại giúp phát tán hạt giống và góp phần duy trì sự cân bằng sinh thái. Khi một yếu tố trong hệ sinh thái thay đổi (ví dụ như sự suy giảm số lượng loài động vật do săn bắn), nó sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố khác trong hệ sinh thái và có thể dẫn đến sự suy thoái của toàn bộ hệ sinh thái.

2.1.2. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến

Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến cho thấy mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng không phụ thuộc vào ý thức hay mong muốn chủ quan của con người. Các mối liên hệ này tồn tại một cách khách quan trong bản thân sự vật, hiện tượng và không bị con người chi phối. Điều này có nghĩa là con người không thể tạo ra hoặc phá vỡ mối liên hệ giữa các sự vật theo ý muốn mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Mối liên hệ giữa cung và cầu trong nền kinh tế là một mối liên hệ khách quan. Khi cầu về một loại hàng hóa tăng, giá cả sẽ tăng theo và ngược lại khi cầu giảm, giá cả cũng sẽ giảm. Con người không thể thay đổi quy luật cung cầu này mà chỉ có thể tìm cách điều tiết và kiểm soát nó thông qua các biện pháp kinh tế như thay đổi lãi suất, điều chỉnh thuế quan hoặc hạn chế nhập khẩu [1, tr. 97].

2.1.3. Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ phổ biến

Tính đa dạng và phong phú của mối liên hệ phổ biến thể hiện ở chỗ mỗi sự vật và hiện tượng có rất nhiều mối liên hệ khác nhau. Mỗi mối liên hệ lại phản ánh những khía cạnh khác nhau của sự vật, hiện tượng và có vai trò khác nhau trong quá trình tồn tại, phát triển của chúng. Các mối liên hệ này có thể là mối liên hệ bản chất hoặc hiện tượng, mối liên hệ tất yếu hoặc ngẫu nhiên, mối liên hệ bên trong hoặc bên ngoài. Ví dụ: Trong một doanh nghiệp, có rất nhiều mối liên hệ tồn tại giữa các phòng ban, bộ phận và cá nhân. Mối liên hệ giữa phòng kinh doanh và phòng tài chính là mối liên hệ tương hỗ, bởi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng đến dòng tiền và tình hình tài chính của doanh nghiệp và ngược lại, tình hình tài chính cũng quyết định đến việc triển khai các chiến lược kinh doanh. Ngoài ra, còn có mối liên hệ giữa người lao động và lãnh đạo, giữa doanh nghiệp và khách hàng, giữa doanh nghiệp và đối tác kinh doanh.

Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho thấy mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong một hệ thống liên kết chặt chẽ với nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau theo những quy luật khách quan. Việc hiểu rõ nguyên lý này giúp con người có cái nhìn toàn diện hơn về thế giới xung quanh, từ đó có thể nhận thức đúng đắn và giải quyết các vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả hơn.

2.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận trong mối liên hệ phổ biến

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người phải tôn trọng cái nhìn toàn diện: Khi nhận thức một sự vật cần đặt nó trong một tổng thể thống nhất bao gồm tất cả các khía cạnh, bộ phận cấu thành và mối quan hệ chủ yếu của tổng thể đó; Khi nhận thức một sự vật, người ta phải rút ra những mối quan hệ cơ bản của sự vật và nhận thức chúng một cách thống nhất bên trong; Khi nhận thức một sự vật, ta cần liên hệ nó với sự vật khác và môi trường xung quanh; Khi hiểu sự việc, chúng ta phải tránh phiến diện, ngụy biện và thỏa hiệp. Ví dụ: Ý nghĩa của nguyên tắc quan hệ phổ quát: Bản chất của xã hội loài người là con người phải sản xuất để tồn tại và tiến bộ; Thời đại nào cũng phải sản xuất. Vì vậy, nói theo ngôn ngữ biện chứng, sản xuất được coi là một phạm trù “Hằng”, nghĩa là nó luôn diễn ra không phân biệt hình thức, giai đoạn xã hội.

2.2. Thực trạng vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của Triết học Mác-Lênin vào phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 

Sau gần 40 năm thực hiện đổi mới, với các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nước ta có hơn 930.000 doanh nghiệp, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Đóng góp vào quy mô GDP của khu vực KTTN  xu hướng ngàycàng tăng, từ 21,85% năm 2010 lên 24,2% năm 2015 và đạt 27,08% năm 2020, cao nhất trong các loại hình kinh tếKTTN từ loại hình kinh tế đóng góp đứng thứ hai, sau kinh tế cá thể đã vươn lên đứng đầu.

Đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước của khu vực KTTN liên tục tăng trong giai đoạn 2010-2020: năm 2010 chỉ đạt 70 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2015 tăng 85%, đạt 129,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,7%; đến năm 2020 đạt 247,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,36% và gấp 3,5 lần năm 2010. Năm 2023, khu vực KTTN đóng góp khoảng 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngânsách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xãhội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tếchuyển dịch cơ cấu kinh tếtăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làmcải thiện đời sống nhân dânbảo đảm an sinh xã hội [2, tr. 67].

Nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN đã  những bước tiến quan trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chếchính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân  tổ chức được thể chế hóa  được pháp luật bảo vệPhương thức quản lý của Nhà nước đối với KTTN được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh; môi trường đầu tưkinh doanh từng bước được cải thiện, thông thoáng, thuận lợi hơn. Dânchủ trong đời sống kinh tế -  hội ngày càng được phát huy.

Kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khácnhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và các vùng, miền; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn KTTN  quy mô lớn, hoạt động đa ngành, cókhả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích phát triển KTTN còn một số hạn chếyếu kém:

Kinh tế tư nhân chưa phát huy hết vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm trong những năm gần đây. KTTN đa số có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; có trình độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản.

Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích KTTN phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Hiện tượng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong KTTN còn tương đối phổbiến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, nợ bảo hiểm xã hội, trốn thuế  nợ thuế kéo dài [3, tr. 75].

Xuất hiện một số quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước như can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân.

Nhiều quy định của pháp luật về KTTN chưa được thực hiện nghiêm. Môi trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi ro cao và thiếu tính minh bạch. Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa KTTN các thành phần kinh tế kháccòn tồn tại chi phí trung gian, chi phí không chính thức.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; tình trạng thiếu trách nhiệm, lạm dụng chức quyền, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn diễn ra. Sự phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong quản lý, khuyến khích KTTN phát triển còn thiếu chặt chẽ. Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của KTTN còn thấp.

2.3. Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của Triết học Mác-Lênin vào phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay

2.3.1. Tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại, năng động và hội nhập

 Đây  điều kiện tiên quyết để khu vực KTTN  thể phát triển nhanh và bền vững. Để đạt được điều nàyNhà nước cần tập trung vào ổn định kinh tế  hoàn thiện thể chếđảm bảo nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc thị trường, giảm thiểu sự can thiệp và xóa bỏ các rào cản hành chính, cơ chế xin - cho, thực sự quản lý kinh tế theo nguyên tắc thị trường và sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt, cần kiểm soát chặt chẽ tình trạng doanh nghiệp độc quyền và thao túng chính sách, bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo doanh nghiệp tư nhân có cơ hội bình đẳng để phát triển. Điểm cốt lõi của hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường là phân định mạch lạc vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, theo đó Nhà nước tập trung vào điều tiết vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bảo đảm cơ chế thị trường vận hành hiệu quả, bảo đảm công bằng xã hội. Phải coi nhiệm vụ thúc đẩy phát triển KTTN nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta hiện nay [4, tr. 115].

2.3.2. Bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và bảo đảm thực thi hợp đồng của doanh nghiệp tư nhân

 Một trong những chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại là bảo vệ quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư. Do đó, Nhà nước cần xây dựng và thực thi cơ chế pháp lý chặt chẽ về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình; giảm thiểu rủi ro pháp lý, hạn chế tối đa tình trạng thay đổi chính sách đột ngột gây tổn thất cho doanh nghiệp. Tạo lập cơ chế hỗ trợ và bảo vệ nhà đầu tư tư nhân, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, giúp họ an tâm và phát triển thuận lợi. Ngoài ra, một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đại đòi hỏi một hệ thống thực thi hợp đồng minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, giúp doanh nghiệp yên tâm trong các giao dịch thương mại và đầu tư. Để thực hiện điều này, Nhà nước cần cải cách hệ thống tư pháp thương mại, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng, giảm thiểu chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp, giảm tình trạng hợp đồng bị vi phạm mà không có biện pháp chế tài hiệu quả; tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của tòa án kinh tế, trọng tài thương mại, đảm bảo phán quyết công bằng, khách quan, giúp doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tăng cường giám sát thực thi pháp luật, khắc phục tình trạng thiếu nhất quán giữa Trung ương và địa phương; xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng thanh kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó cho doanh nghiệp, tăng cường đầu tư, hỗ trợ KTTN phát triển. Đồng thời kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp; yêu cầu doanh nghiệp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, xây dựng giá trị, đạo đức kinh doanh nhằm thúc đẩy KTTN phát triển lành mạnh.

2.3.3. Phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân

Bên cạnh việc phải củng cố mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tếnhà nước cần ưu tiên xây dựng các tập đoàn KTTN tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời nâng đỡ thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược của đất nước. Thực hành quan điểm KTTN đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc kinh tế thị trường định hướng XHCN, loại bỏ  tưởng trọng công hơn tư”  sự “độc quyền” của doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực. Hình thành và phát triển các tập đoàn KTTN lớn, mạnh, có năng lực cạnh tranh quốc tế, có sứ mệnh dẫn dắt, hỗ trợ trở lại các doanh nghiệp nội địa khác cùng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời phải có chính sách riêng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển cũng như thành phần kinh tế hộ gia đình và kinh tế hợp tác xã, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, hiệu quả. Vì vậy, để KTTN không chỉ phát triển về quy mô mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển dài hạn của đất nước cần khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia các lĩnh vực chiến lược, phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng, công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn và an ninh năng lượng. Mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân trong các dự án quan trọng quốc gia cùng tham gia với Nhà nước trong một số ngành công nghiệp chiến lược và một số lĩnh vực đặc biệt, nâng cao năng lực nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhà nước có cơ chế chính sách giao đặt hàng khu vực KTTN tham gia vào một số dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia, những nhiệm vụ cấp bách như xây dựng đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, công nghiệp quốc phòng, an ninh... [5, tr. 149].

2.3.4. Thúc đẩy làn sóng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới

 Đây  yếu tố then chốt giúp KTTN bứt phá và vươn tầm quốc tế. Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và hiệu quả để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân ứng dụng công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng. Nhà nước cần tạo khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho các lĩnh vực công nghệ mới, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực tiên phong như trí tuệ nhân tạo, blockchain, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech) và y tế thông minh... Triển khai các chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R&D). Hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp mạnh mẽ, tạo điều kiện cho các startup, các “kỳ lân công nghệ” mang tên Việt Nam vươn tầm quốc tế.

2.3.5. Cải cách thể chế, kiến tạo nền hành chính “phục vụ doanh nghiệp - phụng sự đất nước”

 Cần quyết liệt cải cách thể chế trên nền tảng đổi mới tư duy trong cải cách mạnh mẽ nền hành chính hướng đến phục vụ người dân, doanh nghiệp; quyết đoán trong cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, đẩy nhanh quá trình số hóa và ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước nhằm giảm thời gian, chi phí tuân thủ, chi phí không chính thức; thiết lập cơ chế đối thoại, phản biện chính sách hiệu quả, tạo điều kiện để cộng đồng doanh nghiệp tư nhân tham gia góp ý vào quá trình hoạch định chính sách kinh tế, đảm bảo tính thực tiễn và khả thi cao. Phấn đấu trong vòng 3 năm tới, môi trường kinh doanh của Việt Nam nằm trong Top 3 ASEAN.

2.3.6. Giải phóng tối đa các nguồn lực phát triển cho kinh tế tư nhân

 Đó  tạo cơ hội cho KTTN tiếp cận hiệu quả các nguồn lực quan trọng như vốn, đất đai, nhân lực, công nghệ.  Thúc đẩy KTTN hội nhập sâu rộng hơn nữa vào kinh tế toàn cầu, nâng cao vị thế kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp trước các rủi ro kinh tế. Cần có những chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn để KTTN tiếp cận nguồn lực một cách thuận lợi, công bằng, bình đẳng, minh bạch và hiệu quả, có thể khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực này. Phát triển các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp tư nhân, bao gồm thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức tài chính hiện đại như fintech, huy động vốn cộng đồng; xây dựng chính sách đất đai ổn định, minh bạch, tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận quỹ đất thuận lợi, với giá hợp lý. Nhà nước cần định hướng, hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, hình thành đội ngũ doanh nhân có tư duy toàn cầu. Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích và định hướng doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghệ cao, thay vì tập trung quá nhiều vào bất động sản và các lĩnh vực có tính đầu cơ ngắn hạn. Xây dựng cơ chế, chính sách bảo vệ doanh nghiệp tư nhân trước những cú sốc kinh tế, nhất là trong bối cảnh bất ổn toàn cầu, suy thoái kinh tế và biến động thị trường.

3. Kết luận

Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phát triển KTTN thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát triển KTTN là một chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt giai đoạn đổi mới, đặc biệt từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII của Đảng với việc khẳng định và nhấn mạnh, phát triển KTTN trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trải qua gần 40 năm đổi mới, khu vực KTTN đã có bước phát triển đáng kể và đóng góp to lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên, so với kỳ vọng vẫn còn khoảng cách lớn. Trong thời gian tới, để KTTN phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, bên cạnh nỗ lực của chính khu vực KTTN cần phát huy vai trò của Nhà nước trong việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, tạo nền tảng vững chắc hơn nữa, góp phần quan trọng để phát triển bền vững KTTN. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với KTTN ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát, phản biện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với khu vực KTTN được nâng lênCáchiệp hội ngành, nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh nhândoanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước, giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Nguyễn Văn Hùng (2023), Thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 01 + 02 tháng 01.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Tạ Thị Đoàn (2021), Giải pháp phát triển doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 31.

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516