TRƯƠNG VĨNH KHANG
Viện Nhà nước và Pháp luật
Nhận bài ngày 14/7/2025. Sửa chữa xong 07/8/2025. Duyệt đăng 10/8/2025.
Abstract
This article examines Ho Chi Minh’s ideology on revolutionary morality as both a theoretical and practical foundation for developing a contingent of legal science researchers who are “both red and expert” in the new era. By clarifying the content and value of revolutionary moral standards, the paper evaluates how this ideology has been applied in building the research team at the Institute of State and Law—a leading institution in the study of state and legal theory.
Keywords: Ho Chi Minh’s ideology, revolutionary morality, Institute of State and Law, legal science.
1. Đặt vấn đề
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức cách mạng là nền tảng cốt lõi làm nên phẩm chất, bản lĩnh và uy tín của người cán bộ, đảng viên. Người từng nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng”, bởi nếu thiếu đạo đức, người cán bộ dù có tài năng đến đâu cũng không thể hoàn thành sứ mệnh trước Đảng, trước nhân dân. Tư tưởng ấy không chỉ là nguyên lý xây dựng Đảng về mặt đạo đức, mà còn là kim chỉ nam soi sáng cho mọi lĩnh vực công tác, trong đó có lĩnh vực đặc thù như nghiên cứu khoa học và đào tạo pháp lý – nơi đòi hỏi cao về bản lĩnh chính trị, trí tuệ lý luận và tinh thần phụng sự xã hội.
Trong Bối cảnh mới, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, hoạt động nghiên cứu pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đứng trước cả cơ hội phát triển vượt bậc lẫn thách thức đạo đức, khi môi trường học thuật thay đổi nhanh chóng, áp lực về công bố quốc tế, số hóa dữ liệu và đổi mới công nghệ đặt ra nhiều yêu cầu mới. Trước tình hình đó, việc giữ vững và phát huy các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là “la bàn tinh thần”, giúp đội ngũ cán bộ khoa học pháp lý định hướng đúng đắn trong nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn chính sách và quản trị tổ chức.
Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật – một tổ chức Đảng trong đơn vị nghiên cứu đầu ngành có vai trò đặc biệt trong việc cụ thể hóa những chuẩn mực đạo đức cách mạng vào thực tiễn công tác. Từ giáo dục tư tưởng, đổi mới sinh hoạt chi bộ, đến khuyến khích tinh thần liêm chính học thuật, nêu gương trong đào tạo – mỗi hành động của đảng viên đều góp phần xây dựng một đội ngũ trí thức pháp lý “vừa hồng vừa chuyên”, đủ tâm – tài – tầm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời đại mới.
Xuất phát từ yêu cầu đó, bài viết tập trung phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đánh giá thực tiễn vận dụng tại Viện Nhà nước và Pháp luật, đồng thời đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một bộ phận cốt lõi trong di sản lý luận của Người, thể hiện tầm nhìn chiến lược về xây dựng Đảng, xây dựng con người và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ việc kế thừa tinh thần nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với truyền thống đạo lý phương Đông và giá trị đạo đức dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò đặc biệt của đạo đức trong sự nghiệp cách mạng. Người từng nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”[1]
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức không chỉ được trình bày dưới dạng lý luận, mà còn thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đánh giá về ảnh hưởng của Lênin, Chủ tịch HồChí Minh đã chỉ rõ: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị… đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á”[2]. Qua đó, có thể thấy sự nhấn mạnh trong tư tưởng của Hồ Chí Minh rằng đạo đức làm nên tầm vóc vĩ đại của một nhà cách mạng – một người lãnh đạo.
Những quan điểm đó có giá trị đặc biệt trong công tác nghiên cứu pháp luật hiện nay – một lĩnh vực đòi hỏi bản lĩnh chính trị, tư duy độc lập, tinh thần phụng sự công lý và đạo đức nghề nghiệp nghiêm ngặt. Cán bộ nghiên cứu luật không chỉ là người làm khoa học, mà còn là người trực tiếp góp phần hình thành nền tảng lý luận cho việc xây dựng, hoàn thiện và vận hành hệ thống pháp luật – công cụ thực thi quyền lực nhà nước. Nếu thiếu bản lĩnh đạo đức, việc nghiên cứu pháp luật có thể dễ bị chi phối bởi lợi ích cục bộ, thiếu khách quan, xa rời lợi ích nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, việc rèn luyện đạo đức phải gắn với chống chủ nghĩa cá nhân – một biểu hiện tha hóa đạo đức thường trực trong bộ máy nhà nước. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội, người cách mạng phải tiêu diệt nó”[3]. Chủ nghĩa cá nhân khiến người cán bộ xa rời quần chúng, đánh mất lý tưởng cách mạng, biến mình thành “quan cách mạng” thay vì “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Đối với công tác nghiên cứu và xây dựng pháp luật, yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm tính liêm chính khoa học và trung thực học thuật. Đó không chỉ là chuẩn mực nghề nghiệp, mà còn là biểu hiện của đạo đức cách mạng. Trong các nghiên cứu gần đây, nhiều học giả đã nhấn mạnh rằng: bản lĩnh chính trị vàđạo đức nghiên cứu là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính độc lập, khách quan trong tư vấn chính sách, phản biện xã hội và phổ biến kiến thức pháp lý. Mối quan hệ giữa đạo đức và nghiên cứu khoa học nói chung cũng như nghiên cứu về pháp luật nói riêng ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết trên thế giới và Việt Nam [1]. Đây cũng là lý do vì sao Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải thực hành phê bình và tự phê bình, học tập lý luận để nâng cao năng lực tư duy và tinh thần phục vụ nhân dân.
Ngoài ra, trong xây dựng tổ chức Đảng – nền tảng chính trị của bộ máy nhà nước – Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn gương mẫu đi đầu. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), Người nêu ra 23 điều về “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó có điều: “Nói thì phải làm”. Người còn nhấn mạnh: “Cán bộ xung trước,/Làng nước theo sau,/Việc khó đến đâu,/Cũng làm được hết”[4]. Đối với các cơ quan nghiên cứu tư vấn chính sách, như Viện Nhà nước và Pháp luật – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, điều này lại càng cấp thiết. Bởi lẽ, sự gương mẫu của lãnh đạo không chỉ củng cố uy tín của tổ chức mà còn tạo dựng môi trường học thuật nghiêm túc, minh bạch, giúp thúc đẩy sự sáng tạo và dấn thân của đội ngũ trí thức pháp lý.
Phân tích trên đưa chúng ta đi đến khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng lànền tảng lý luận – thực tiễn không thể thiếu để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học pháp lý “vừa hồng, vừa chuyên”, “vừa có tâm, vừa có tầm”. Trong công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng Nhà nước phápquyền xã hội chủ nghĩa, việc vận dụng sâu sắc tư tưởng của Người sẽ giúp mỗi cán bộ, đảng viên xáclập phương châm hành động đúng đắn, biết vượt lên thách thức, cống hiến vì sự phát triển bền vững của khoa học pháp lý và nền quản trị quốc gia.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tại Viện Nhà nước và Pháp luật
3.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác nghiên cứu, đào tạo và xây dựng đội ngũ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản quý báu của dân tộc ta, trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong việc hình thành phẩm chất người cán bộ, công chức, viên chức và trí thức. Người từng căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[5], đồng thời nhấn mạnh có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[6]. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận, xây dựng pháp luật và đào tạo pháp lý – như ở Viện Nhà nước và Pháp luật – tư tưởng ấy có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, là kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt động chuyên môn, tổ chức và đào tạo trong đơn vị.
3.1.1. Quán triệt đạo đức cách mạng trong tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách
Viện Nhà nước và Pháp luật luôn xác định hoạt động nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là cơ sở để đóng góp thiết thực vào việc hoàn thiện thể chế, pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung với nước, hiếu với dân”, “nói đi đôi với làm”, “phải đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết” đã được vận dụng trong định hướng nghiên cứu, tư vấn chính sách tại Viện.
Trong các năm qua, đặc biệt là năm 2024, Viện đã tích cực triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học từ cấp cơ sở đến cấp Nhà nước, tập trung vào các vấn đề thiết thực như cải cách thể chế, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện pháp luật kinh tế, pháp luật xã hội, góp phần trực tiếp vào tư vấn xây dựng văn bản pháp luật và hoạch định chính sách quốc gia. Viện cũng tham gia tích cực vào các hoạt động góp ý dự thảo văn bản pháp luật (30 văn bản trong năm 2024), xây dựng Đề án chiến lược lớn của Chính phủ và Viện Hàn lâm, thực hiện nhiệm vụ tư vấn nội dung cho 8 phiên họp Chính phủ chuyên đề về pháp luật [3].
Những kết quả ấy không chỉ thể hiện trách nhiệm chính trị và đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ nghiên cứu mà còn là biểu hiện cụ thể của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “trách nhiệm với Đảng, với nhân dân”, về tinh thần cống hiến và phụng sự đất nước.
3.1.2. Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cán bộ khoa học có “tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ phải luôn giữ vững đạo đức cách mạng, không bị cám dỗ bởi chủ nghĩa cá nhân, “phải giữ chủ nghĩa cho vững, phải có tinh thần tự phê bình và phê bình, phải yêu thương đồng chí, phải luôn luôn cố gắng”. Viện Nhà nước và Pháp luật đã và đang thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ theo hướng bền vững, kế thừa và phát triển, dựa trên nền tảng đó.
Viện luôn duy trì tốt hoạt động xây dựng đội ngũ, đặc biệt chú trọng phát hiện, bồi dưỡng và giao nhiệm vụ cho lớp cán bộ trẻ. Các nhóm nghiên cứu chuyên sâu đã được hình thành và duy trì thường xuyên từ năm 2022 đến nay, tạo điều kiện để các nhà khoa học trẻ rèn luyện năng lực nghiên cứu, từng bước phát triển chuyên môn, đồng thời kế thừa các định hướng nghiên cứu trọng tâm của Viện [2].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “học tập suốt đời”, “tự rèn luyện, tự phê bình và phê bình” cũng được thể hiện trong phương pháp đánh giá, đào tạo nội bộ. Viện có chính sách khuyến khích cá nhân đăng ký đề tài nghiên cứu theo chuỗi 2–3 năm để xuất bản sách; khen thưởng các sản phẩm nghiên cứu có bài ISI/Scopus, sách chuyên khảo chất lượng cao; khuyến khích viên chức hoàn thiện hồ sơ xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư. Qua đó, phát triển năng lực chuyên môn gắn liền với đạo đức khoa học và tinh thần tự học, tự rèn luyện
3.1.3. Thực hiện dân chủ, kỷ cương, nêu gương trong tổ chức bộ máy
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ nằm ở cá nhân từng cán bộ mà còn ở tổchức, trong đó vai trò nêu gương, tính dân chủ và kỷ cương đóng vai trò nền tảng. Viện Nhà nước vàPháp luật trong các năm qua đã nhất quán thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trách nhiệm cá nhân đi đôi với vai trò tập thể lãnh đạo. Mọi hoạt động điều hành đều thực hiện theo hướng công khai, minh bạch, có sự phân công rõ ràng và đảm bảo phản biện trong nội bộ.
Tại Viện, các quy chế nội bộ như Quy chế làm việc, Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quy chế đánh giá viên chức, Quy chế chi tiêu nội bộ… đều được rà soát, ban hành và cập nhật thường xuyên theo hướng bám sát yêu cầu thực tiễn và pháp luật hiện hành. Đây là những công cụ quan trọng để thiết lập và duy trì kỷ cương, đồng thời phát huy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân trong tập thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “nêu gương” – cán bộ lãnh đạo phải đi đầu trong mọi việc – được thể hiện rõ qua việc các đồng chí lãnh đạo Viện và các trưởng phòng luôn tích cực tham gia nghiên cứu, giảng dạy, đồng thời trực tiếp hướng dẫn, kèm cặp lớp cán bộ trẻ. Việc duy trì sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt học thuật cũng tạo không gian để mọi người được phản ánh tâm tư, đồng thời đề xuất các sáng kiến trong nghiên cứu, quản lý và đào tạo.
3.1.4. Kết hợp đạo đức cách mạng với đổi mới tư duy và phương pháp tổ chức nghiên cứu
Trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và yêu cầu cải cách thể chế ngày càng sâu rộng, Viện đã tích cực đổi mới tư duy nghiên cứu và phương pháp tổ chức hoạt động khoa học – từ đơn lẻ sang liên ngành, từ nghiên cứu lý luận thuần túy sang nghiên cứu gắn với tư vấn chính sách. Viện đã tổ chức nhiều tọa đàm, hội thảo chuyên đề, trong đó có nhiều chương trình hợp tác quốc tế, phối hợp với các trường đại học và viện nghiên cứu trong và ngoài nước [3].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “tư duy độc lập, sáng tạo, không rập khuôn, giáo điều” chính là kim chỉ nam cho những đổi mới này. Viện đã tạo điều kiện cho cán bộ chủ động tiếp cận các vấn đề pháp lý mới, ứng dụng công nghệ vào nghiên cứu, tăng cường công bố quốc tế, đồng thời không ngừng củng cố đạo đức học thuật và tinh thần phản biện khoa học một cách xây dựng.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tổ chức và hoạt động của Chi bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là nền tảng lý luận và kim chỉ nam hành động đối với mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng vươn lên mạnh mẽ trong thế kỷ XXI. Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và đổi mới toàn diện, đạo đức cách mạng không chỉ là tiêu chuẩn phẩm chất của mỗi người cán bộ mà còn là cốt lõi tinh thần để xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của hệ thống chính trị.
Đối với Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật – một đơn vị nghiên cứu đầu ngành về lý luận và thực tiễn nhà nước, pháp luật ở Việt Nam – việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có ýnghĩa đặc biệt sâu sắc. Chi bộ đã chủ động cụ thể hóa tư tưởng ấy trong từng hoạt động chuyên môn, trong phương thức tổ chức và trong xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ khoa học. Những kết quả đó thểhiện rõ qua ba định hướng lớn sau:
3.2.1. Nâng cao phẩm chất chính trị – đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong hoạt động nghiên cứu vàđào tạo
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh rằng đạo đức cách mạng là nền tảng gốc rễ của người cán bộ. Người căn dặn: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những chuẩn mực hàng đầu mà người cán bộ, đảng viên phải có để phục vụ nhân dân và đất nước. Đạo đức ấy không chỉ là lòng trung thành với Đảng, tận tụy với công việc mà còn thể hiện ở tinh thần học hỏi không ngừng, thái độ cầu thị, nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình, sẵn sàng vì lợi ích chung mà gác lại lợi ích cá nhân.
Thấm nhuần tư tưởng đó, trong nhiều năm qua, Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật luôn chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, học tập nghị quyết, sinh hoạt chi bộ định kỳ và thông qua các hoạt động chuyên môn hàng ngày. Chi bộ không chỉ quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà còn cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào công việc chuyên môn – từ xây dựng đề tài nghiên cứu, tư vấn chính sách, đến tham gia xây dựng văn bản pháp luật, giảng dạy, hướng dẫn học viên sau đại học.
Từng cán bộ, đảng viên trong Chi bộ được khuyến khích giữ gìn phẩm chất liêm chính trong nghiên cứu khoa học, tuyệt đối không chạy theo thành tích, không đánh đổi chất lượng vì lợi ích cá nhân. Những hình thức khen thưởng nội bộ tại Viện đều gắn với các tiêu chí vừa về chuyên môn, vừa về thái độ, tinh thần trách nhiệm – đây chính là cách cụ thể hóa việc “lấy đạo đức làm gốc” trong đánh giá cán bộ.
3.2.2. Thể hiện vai trò nêu gương và giữ gìn kỷ luật Đảng trong xây dựng tổ chức Chi bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn thể hiện sâu sắc ở nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng: đề cao tính kỷ luật, tính tự giác và vai trò nêu gương của người đứng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Muốn hướng dẫn nhân dân, trước hết mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Nhận thức sâu sắc điều đó, Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật luôn đề cao vai trò nêu gương của từng đồng chí trong cấp ủy và mỗi đảng viên, đặc biệt trong những vấn đề khó khăn, thách thức như tinh giản biên chế, kiện toàn tổ chức bộ máy hay nghiên cứu các đề tài mang tính chất nhạy cảm về chính trị - pháp lý.
Trong công tác tổ chức, Chi bộ duy trì nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo mọi đảng viên đều được đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ, đánh giá công tác đảng viên. Từng đảng viên được giao nhiệm vụ đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đúng giờ, đúng việc, đúng cam kết. Các sinh hoạt chi bộ không chỉ là nơi triển khai chủ trương mà còn là diễn đàn để mỗi đảng viên thể hiện bản lĩnh chính trị, đạo đức và tinh thần học hỏi, tương thân tương ái trong tập thể.
Việc kiểm điểm và tự phê bình, phê bình hằng năm được Chi bộ triển khai nghiêm túc, thực chất, không hình thức. Từng cán bộ tự soi, tự sửa theo tiêu chuẩn đảng viên, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung thực với mình, với đồng chí, với tổ chức”, từ đó tạo ra môi trường làm việc trong sạch, minh bạch và đoàn kết.
3.2.3. Đổi mới tư duy nghiên cứu gắn với tinh thần trách nhiệm với Đảng và nhân dân
Kỷ nguyên mới là thời đại của khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa, đặt ra nhiều thách thức đối với công tác nghiên cứu lý luận – pháp lý. Trong bối cảnh đó, Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật không chỉ vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như một giá trị truyền thống mà còn là động lực để đổi mới mạnh mẽ tư duy nghiên cứu, phục vụ thực tiễn đất nước.
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là chuẩn mực hành vi cá nhân, mà còn làsự nhạy bén, dũng cảm trong đổi mới tư duy, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Các đảng viêncủa Chi bộ đã chủ động đề xuất hướng nghiên cứu mới, liên ngành, tham gia đấu thầu đề tài cấp Nhànước, hợp tác quốc tế, công bố quốc tế và các bài ISI/Scopus [3] góp phần nâng cao vị thế khoa học của Viện. Nhiều đảng viên tích cực tham gia tư vấn chính sách, góp ý văn bản pháp luật, viết tham luận cho các diễn đàn quốc gia, thể hiện rõ tinh thần “trung thành với Đảng, tận tụy với dân, dũng cảm trong nghiên cứu” – đúng như lời Bác dạy. Bên cạnh đó, Chi bộ còn lồng ghép nội dung học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào các hoạt động chuyên môn như tổ chức hội thảo, tọa đàm học thuật, sinh hoạt chuyên đề, khơi dậy tinh thần học và làm theo Bác từ những việc nhỏ, thiết thực – như trách nhiệm trong từng bài viết, mỗi giờ làm việc, mỗi buổi sinh hoạt chi bộ.
Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc – kỷ nguyên của chuyển đổi số, của khát vọng hùng cường và hội nhập sâu rộng – việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng không chỉ là yêu cầu về chính trị, tư tưởng, mà còn là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên. Với Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật, đó là nền tảng cho sự phát triển vững chắc, là động lực để tiếp tục phụng sự đất nước bằng trí tuệ, tâm huyết và tinh thần cống hiến.
4. Kết luận
Trong bối cảnh đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ với khát vọng phát triển hùng cường, việc giữ vững và phát huy chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt ở các viện nghiên cứu lý luận chính trị, pháp luật – không chỉ là yêu cầu chính trị nhất thời, mà là đòi hỏi mang tính chiến lược lâu dài. Đạo đức cách mạng không tách rời trí tuệ, năng lực, mà chính là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh, bền vững của khoa học, giáo dục và quản trị quốc gia. Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật – với vai trò là hạt nhân chính trị trong một đơn vị khoa học đầu ngành đã và đang thể hiện rõ vai trò định hướng, dẫn dắt, lan tỏa những giá trị đạo đức cách mạng vào từng hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên mới – với sự bùng nổ của công nghệ, áp lực hội nhập và biến động xã hội ngày càng sâu sắc – yêu cầu đặt ra là không ngừng làm mới phương thức giáo dục đạo đức, gắn đạo đức với đổi mới sáng tạo, đồng thời xây dựng mô hình cán bộ đảng viên gương mẫu cả về tư tưởng, chuyên môn và tác phong học thuật.
Tài liệu tham khảo
[1] Trần Thị Hồng Hạnh (2022), Đạo đức nghiên cứu và liêm chính học thuật trong nghiên cứu quyền con người, nguồn: https://qcn.hcma.vn/Content/dao-duc-nghien-cuu-va-liem-chinh-hoc-thuat-trong-nghien-cuu-quyen-con-nguoi-402816?
[2] Viện Nhà nước và Pháp luật (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2023, Hà Nội.
[3] Viện Nhà nước và Pháp luật (2023), Báo cáo tổng kết công tác năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2025, Hà Nội.
[1]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 12, 2021), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 601.
[2]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 1, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 317.
[3]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 11, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 611.
[4]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 15, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 271
[5]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 15, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 611-6.12.
[6]) Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 5, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 292.