PHẠM THỊ VIỆT PHƯƠNG
Trường Đại học Văn Lang
Abstract
School and family reproductive health education for adolescents has faced challenges, especially in rural areas. Cultural and social norms have prevented parents and teachers from openly discussing and sharing reproductive health issues at home and school. Lack of trained human resources in reproductive health knowledge and skills, limited financial resources, and lack of appropriate reproductive health education materials for different age groups and cultural contexts are also challenges that are reducing the effectiveness of reproductive health education for adolescents.
Keywords: Reproductive health, reproductive health education, adolescents, family, school.
1. Đặt vấn đề
Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển quan trọng để hình thành và tiếp nhận các thông tin về phương pháp chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) nói riêng. Tuổi vị thành niên cũng là giai đoạn gặp nhiều vấn đề trong chăm sóc SKSS như thiếu kiến thức, hiểu biết về SKSS, thiếu hiểu biết về tình dục an toàn (UNFPA, 2019) và kiến thức, thái độ, thực hành chung về chăm sóc SKSS chưa tốt cũng như nhận thức về các triệu chứng viêm nhiễm đường sinh sản còn rất hạn chế [2].
Sự thiếu hụt kiến thức và hiểu biết về các vấn đề SKSS đã làm tăng nguy cơ mang thai, nạo phá thai, nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm qua được tình dục và các bệnh viêm nhiễm đường sinh dục trong độ tuổi vị thành niên. Thực tế ở Việt Nam đã có rất nhiều trường mang thai ở tuổi vị thành niên và thu hút sự quan tâm của dư luận. Điển hình như trường hợp vị thành niên ở huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang mang thai và sinh con khi đang học lớp 7 (13 tuổi). Điều đáng quan tâm là quá trình mang thai và sinh con của vị thành niên này không một ai biết, bao gồm cả gia đình và nhà trường. Trường hợp thứ hai ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, vị thành niên mang thai và sinh con khi đang học lớp 5 (11 tuổi) [13] và còn rất nhiều trường hợp vị thành niên mang thai khác [3].
Những dữ liệu trên cho thấy lỗ hổng trong giáo dục SKSS đối với vị thành niên ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực nông thôn hiện nay. Nhiều nghiên cứu trên thế giới nhấn mạnh vai trò của giáo dục SKSS trong việc giảm bớt các tác động tiêu cực đến SKSS của vị thành niên Rada (2014) [9] chỉ ra rằng giáo dục SKSS không chỉ cung cấp kiến thức về chăm sóc SKSS mà còn giảm thiểu sự xuất hiện của hành vi tình dục lệch lạc. Canan và Jozkowski (2017) [1] nhấn mạnh giáo dục SKSS giúp vị thành niên rèn luyện kỹ năng giữ gìn vệ sinh bộ phận sinh dục, ngăn ngừa các hội chứng tiền kinh nguyệt cho vị thành niên. Ngoài ra, giáo dục SKSS còn giúp loại bỏ được các nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (Wanje và cộng sự, 2017) [14], giảm nguy cơ mắc HIV/AIDS do quan hệ tình dục không an toàn và ít có xu hướng quan hệ tình dục trước hôn nhân ở tuổi vị thành niên hơn [10].
Bài viết tập trung phân tích những thách thức của nhà trường và gia đình trong giáo dục SKSS đối với vị thành niên ở Việt Nam hiện nay, từ đó gợi mở một số giải pháp thúc đẩy giáo dục SKSS phù hợp hơn với nhu cầu giáo dục SKSS của vị thành niên.
2. Nội dung nghiên cứu
Giáo dục SKSS ở Việt Nam đã từng bước được cải thiện trong những năm qua, tuy nhiên vẫn còn những thách thức và hạn chế trong quá trình thực hiện. Chính phủ Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục sức khỏe sinh sản và đã nỗ lực đưa giáo dục này vào chương trình giảng dạy ở trường học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng các hướng dẫn và tài liệu giảng dạy về sức khỏe sinh sản, bao gồm các chủ đề như tuổi dậy thì, giải phẫu sinh sản và tình dục, biện pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) và quan hệ tình dục lành mạnh. Những chủ đề này thường được bao gồm trong các môn học như sinh học hoặc giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục SKSS của nhà trường đối với học sinh (HS) (vị thành niên) vẫn còn nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất trong giáo dục SKSS trong nhà trường là sự kỳ thị văn hóa và sự kỳ của xã hội khi đề cập đến những chủ đề tình dục và SKSS. Điều này có thể gây khó khăn cho việc đề cập chủ đề tình dục và SKSS một cách cởi mở trong trường học. Sự kỳ thị này cũng có thể ảnh hưởng đến sự sẵn lòng cung cấp thông tin toàn diện và chính xác của giáo viên, dẫn đến tính hiệu quả trong giáo dục SKSS không cao.
Một thách thức khác là thiếu nguồn lực và đào tạo giáo viên. Thiếu nguồn lực và đào tạo giáo viên có thể dẫn đến việc cung cấp thông tin không nhất quán hoặc không đầy đủ và/hoặc giáo viên có thể cảm thấy không thoải mái với chủ đề tình dục và SKSS. Do đó, hoạt động giáo dục SKSS cho HS tuổi vị thành niên chưa đạt hiệu quả cao. Ruth và cộng sự, (2020) [11] cho rằng hiệu quả giáo dục SKSS phụ thuộc vào sự tự tin và năng lực của giáo viên trong việc cung cấp thông tin và giáo dục về SKSS, chính sách và môi trường của trường học, và vấn đề ưu tiên dành cho giáo dục SKSS trong nhà trường. Mặc dù ở Việt Nam hiện nay, các cơ sở giáo dục phổ thông cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp đã thành lập tổ tư vấn tâm lý, trong đó có nội dung tư vấn về tâm lý lứa tuổi, giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên phù hợp với lứa tuổi theo quy định tại Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT ngày 18/12/2017 về tư vấn tâm lý cho HS THPT và Thông tư số 33/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 về hướng dẫn thực hiện công tác xã hội trong trường học, tuy nhiên, chất lượng hoạt động của tổ tâm lý và công tác xã hội trong trường học còn thấp và chưa được đầu tư phát triển tương xứng với nhu cầu của HS và nhà trường. Vai trò tư vấn các vấn đề liên quan đến HS và kết nối nguồn lực trong hoạt động tư vấn còn mờ nhạt, phương pháp và kỹ năng còn hạn chế, HS chưa chủ động tiếp cận với tổ tư vấn của nhà trường [8].
Rõ ràng, những thách thức trên đã và đang tác động đến chất lượng của chương trình giáo dục SKSS cho HS tuổi vị thành niên và dẫn đến tình trạng vị thành niên hiểu biết chưa cao về SKSS. Nguyen Thi Huong và cộng sự (2021) [7] chỉ ra rằng đa số HS THPT có mức độ hiểu biết về giáo dục SKSS ở mức trung bình (55,4% theo đánh giá của cán bộ quản lý giáo dục; 54% theo đánh giá của giáo viên; 41,2% theo đánh giá của HS). Như vậy, để hoạt động giáo dục SKSS tốt cho HS tuổi vị thành niên, chúng ta cần phải giải quyết những thách thức đề cập trên. Tức là cần phải phá bỏ sự kỳ thị khi đề cập đến thông tin tình dục và SKSS, đặc biệt là các nhà quản lý giáo dục, giáo viên cần tự tin truyền đạt thông tin, kiến thức về tình dục và SKSS cho HS, đồng thời xây dựng môi trường thân thiện giữa giáo viên và HS để có thể chia sẻ những vấn đề liên quan đến SKSS một cách đồng cảm và đảm bảo quyền cá nhân và tính khuyết danh. Bên cạnh đó, việc đảm bảo nguồn lực con người, tài chính và tài liệu phù hợp về giáo dục SKSS đáp ứng nhu cầu của HS tuổi vị thành niên cần được thúc đẩy mạnh mẽ và bền vững hơn nữa, đặc biệt là tăng cường và trao quyền cho nhân viên công tác xã hội, nhân viên tâm lý chính quy trong giáo dục SKSS đối với vị thành niên, thay vì để giáo viên kiêm nhiệm và kết hợp nội dung giáo dục SKSS vào các môn học như hiện nay. Nói cách khác, cần đảm bảo nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp về công tác xã hội, tâm lý học và xây dựng các chuyên đề về giáo dục SKSS riêng cho HS vị thành niên trong nhà trường hiện nay nhằm tăng cường hiểu biết cho HS vị thành niên về các vấn đề liên quan đến SKSS, chăm sóc SKSS và bảo vệ bản thân trước các nguy cơ bị lợi dụng và xâm hại tình dục ngày nay.
3. Những thách thức trong giáo dục SKSS của gia đình đối với vị thành niên
Hiệu quả giáo dục SKSS không chỉ chịu ảnh hưởng từ môi trường nhà trường mà còn cả môi trường gia đình. Ở Việt Nam, các chuẩn mực văn hóa và giá trị truyền thống vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ và thực hành liên quan đến giáo dục SKSS. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy không thoải mái khi thảo luận những chủ đề này với con cái do sự nhạy cảm về văn hóa, sự kỳ thị và xấu hổ khi thảo luận về SKSS, đặc biệt là các chủ đề như biện pháp tránh thai, quan hệ tình dục và các bệnh lây truyền qua đường tình dục và sự thiếu hiểu biết hoặc thiếu tự tin khi đề cập đến chủ đề SKSS và điều này khiến cho việc truyền đạt thông tin và mở rộng kiến thức về SKSS của cha mẹ càng trở nên khó khăn hơn. Lê Minh Thi và Ngô Anh Vinh (2023) [4] cũng chỉ ra rằng thái độ của cha mẹ và quan niệm của xã hội đối với việc chăm sóc, truyền thông và giáo dục SKSS, sức khỏe tình dục cho vị thành niên còn hạn chế, chưa thống nhất và còn nhiều định kiến, trong khi bản thân vị thành niên chưa biết cách tự chăm sóc SKSS/sức khỏe tình dục cũng như tìm kiếm các dịch vụ phù hợp, đáp ứng nhu cầu SKSS/sức khỏe tình dục của chính mình. Còn Ngô Thị Thanh Mai (2020) [6] chỉ ra rằng cha mẹ chưa thực sự tự tin về hiểu biết của mình về tâm sinh lý, những thay đổi và kiến thức về SKSS ở tuổi vị thành niên. Do đó đã có rất nhiều trường hợp vị thành niên quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ở tuổi vị thành niên, bị lạm dụng tình dục, bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, …
Nhiều cha mẹ ở Việt Nam, đặc biệt ở khu vực nông thôn không được đào tạo đầy đủ về giáo dục SKSS, đó đó, họ thường thiếu kiến thức và kỹ năng để giảng dạy hoặc hướng dẫn cho con em vị thành niên về các vấn đề liên quan đến SKSS như quan hệ tình dục an toàn cũng như các biện pháp tránh thai, sự thay đổi tâm sinh lý tuổi vị thành niên và các vấn đề liên quan khác. Ngô Thị Hồng Uyên và cộng sự (2022) [5] chỉ ra rằng chỉ có 58,1% cha mẹ có kiến thức đạt về giáo dục SKSS cho vị thành niên, 52,8% cha mẹ có thái độ đạt và 51,7% cha mẹ có thực hành đạt về vấn đề giáo dục SKSS trẻ vị thành niên.
Một thách thức khác trong giáo dục SKSS của cha mẹ đối với con cái vị thành niên là khả năng tiếp cận nguồn thông tin chính thống về SKSS hạn chế. Nhiều cha mẹ đối mặt với thách thức khi tìm kiếm thông tin về giáo dục SKSS đáng tin cậy, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển công nghệ thông tin, Internet và mạng xã hội, có rất nhiều nguồn thông tin về SKSS, trong đó bao gồm cả các thông tin không chính thống, thông tin sai lệch. Do đó, cha mẹ có thể gặp khó khăn khi tìm hiểu và lựa chọn thông tin phù hợp để giáo dục cho con cái vị thành niên của mình.
4. Bàn luận và kết luận
Giáo dục SKSS đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết, hướng đến việc đảm bảo an toàn cá nhân, thúc đẩy hạnh phúc và trao quyền cho thanh thiếu niên. Ở Việt Nam, việc triển khai giáo dục SKSS cho vị thành niên một cách hiệu quả vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt là ở các vùng nông thôn Việt Nam. Các chuẩn mực văn hóa và xã hội đã cản trở cha mẹ và thầy cô trao đổi, chia sẻ cởi mở về các vấn đề SKSS trong gia đình và nhà trường. Nói cách khác, sự tham gia của cha mẹ và các thầy cô trong nhà trường trong hoạt động giáo dục SKSS cho vị thành niên vẫn đang là một thách thức rất lớn. Do đó, việc tăng cường các chiến dịch nâng cao nhận thức cho gia đình, nhà trường, cộng đồng và chính vị thành niên để giải quyết sự kỳ thị và các quan niệm sai lầm xung quanh vấn đề SKSS, từ đó tăng cường môi trường giao tiếp, trao đổi cởi mở khi đề cập đến các vấn đề về SKSS. Để thực hiện tốt vấn đề này, cần phải tổ chức các chương trình hội thảo, tọa đàm về SKSS và các chương trình phát triển cộng đồng để thu hút sự tham gia của cha mẹ vị thành niên, nhà trường, các nhà lãnh đạo cộng đồng và vị thành niên tham gia thảo luận và trao đổi cởi mở hơn về các vấn đề liên quan đến SKSS.
Sự sẵn có nguồn lực bao gồm nhân lực, tài chính và các tài liệu giáo dục SKSS thích hợp cho các nhóm tuổi và bối cảnh văn hóa khác nhau cũng là một thách thức trong giáo dục SKSS của cả nhà trường và gia đình hiện nay. Do đó, hệ thống giáo dục Việt Nam cần cung cấp cho giáo viên các chương trình đào tạo toàn diện nhằm trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng và phương pháp giảng dạy cần thiết để thực hiện giáo dục SKSS một cách hiệu quả. Hệ thống giáo dục Việt Nam cũng cần phát triển chương trình giảng dạy toàn diện và phù hợp với từng lứa tuổi, phù hợp với văn hóa và phải bao quát được nhiều chủ đề về SKSS như các mối quan hệ, tình dục an toàn, biện pháp tránh thai, bệnh lây truyền qua đường tình dục và bình đẳng giới. Ngoài ra, các tài liệu giáo dục về sức khỏe sinh sản cần phát triển hình thức và nội dung phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với văn hóa và chính xác về mặt khoa học, đồng thời những tài liệu này cần được phổ biến rộng rãi trong các trường học, trung tâm cộng đồng, gia đình và các nền tảng trực tuyến để làm sao cha mẹ của vị thành niên, thầy cô và vị thành niên dễ tiếp cận nhất với các tài liệu này.
Để giải quyết các thách thức trong giáo dục SKSS của nhà trường và gia đình đối với vị thành niên thì việc thiết lập và thúc đẩy các dịch vụ tư vấn và chăm sóc SKSS thân thiện với vị thành niên, đảm bảo sự bảo mật, không phán xét và dễ tiếp cận là rất cần thiết trong các cộng đồng, đặc biệt là ở cộng đồng nông thôn hiện nay nhằm giải quyết các nhu cầu cụ thể của vị thành niên khi họ gặp phải những vấn đề liên quan đến SKSS. Ngoài ra, việc đẩy mạnh nhân viên công tác xã hội làm việc trong hệ thống trường học từ cấp tiểu học đến trung học phổ thông nên được tính đến, bởi vì họ không chỉ hỗ trợ HS giải quyết các vấn đề liên quan đến SKSS mà còn giải quyết các vấn đề khác mà HS gặp phải trong cuộc sống gia đình, nhà trường, cộng đồng và xã hội. Nhân viên công tác xã hội sử dụng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn công tác xã hội để đánh giá nhu cầu của HS, phát triển các kế hoạch can thiệp và tham vấn hoặc trị liệu để giúp HS đối phó với những thách thức, khó khăn gặp phải. Nhân viên công tác xã hội cũng là người đóng vai trò kết nối, cầu nối và thúc đẩy sự hợp tác giữa vị thành niên, gia đình và nhà trường không chỉ trong vấn đề giáo dục SKSS mà còn các vấn đề khác mà vị thành niên, gia đình và nhà trường gặp phải.
Tài liệu tham khảo
[1] Canan, S. N., and Jozkowski, K. N. (2017), Sexual Health Education Topics in Schools: Inclusion and Timing Preferences of a Sample of Southern U.S. College Students (Các chủ đề giáo dục sức khỏe tình dục trong trường học: Sở thích hòa nhập và thời gian của một mẫu sinh viên đại học miền Nam Hoa K), Sex Res Soc Policy, 14 (1): 143–156.
[2] Đào Nguyễn Diệu Trang, Phan Thị Bích Ngọc, Nguyễn Vũ Quốc Huy (2017), Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nữ vị thành niên tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Y Dược Học, Trường Đại học Y Dược Huế, số 6.
[3] Hạnh Nguyên (2023), Những vụ học sinh mang thai gây xôn xao dư luận. Nguồn https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/nhung-vu-hoc-sinh-mang-thai-gay-xon-xao-du-luan-20230217231815421.htm, truy cập ngày 01/3/2023.
[4] Lê Minh Thi và Ngô Anh Vinh (2023), Một số thách thức trong triển khai chính sách chăm sóc sức khỏe vị thành niên: Nghiên cứu trường hợp tại Khoa Vị Thành niên, Bệnh viện Nhi Trung ương, Tạp chí Y học Việt Nam, số 1, tập 523, tr. 167-171, nguồn https://doi.org/10.51298/vmj.v523i1.4436
[5] Ngô Thị Hồng Uyên và cộng sự (2021), Giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên ở các trường Trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành của cha mẹ học sinh, Tạp chí Y học Việt Nam, số 2, tập 509, 96-101. Nguồn https://doi.org/10.51298/vmj.v509i2.1801
[6] Ngô Thị Thanh Mai (2020), Hỗ trợ cha mẹ trong giáo dục sức khỏe sinh sản cho con ở tuổi vị thành niên tại thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ ngành Công tác xã hội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
[7] Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Hong Hoa, Nguyen Thi Quynh Anh (2021), Reproductive Health Education for Vietnamese High School Students in the Current Context (Giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh phổ thông Việt Nam trong bối cảnh hiện nay), American Journal of Educational Research, 9(3), 97-105, DOI: 10.12691/education-9-3-2
[8] Nguyễn Thị Huyền Giang và Nguyễn Đức Chiện (2022), Công tác xã hội trong trường học ở Trung du miền núi Đông Bắc hiện nay (Nghiên cứu 2 trường trung học phổ thông tại Bắc Giang), Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 9, tr. 102-107.
[9] Rada, C. (2014), Sexual behaviour and sexual and reproductive health education: a cross-sectional study in Romania (Hành vi tình dục và giáo dục sức khỏe sinh sản và tình dục: một nghiên cứu cắt ngang ở Romania), Reproductive Health, 11(48): 1–16.
[10] Rossem, R. Van, Berten, H., & Tuyckom, C. Van. (2010), AIDS knowledge and sexual activity among Flemish secondary school students: a multilevel analysis of the effects of type of education (Kiến thức về AIDS và hoạt động tình dục ở học sinh trung học Flemish: phân tích đa cấp độ về tác động của loại hình giáo dục), BMC Public Health, 10 (30): 1-10.
[11] Ruth Walker, et.al. (2020), Teachers’ perspectives of sexual and reproductive health education in primary and secondary schools: a systematic review of qualitative studies (Quan điểm của giáo viên về giáo dục sức khỏe sinh sản và tình dục ở trường tiểu học và trung học cơ sở: tổng quan hệ thống các nghiên cứu định tính), Sex Education, 21(3), 1-18, DOI:10.1080/14681811.2020.1843013
[12] UNFPA (2019), Báo cáo về thanh niên Việt Nam giai đoạn 2015-2018. Bộ Nội vụ và Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam.
[13] Văn Hà (2023), Những bé gái sinh con: Trách nhiệm của bố, mẹ đang bị coi thường?. Nguồn https://baomoi.com/nhung-be-gai-sinh-con-trach-nhiem-cua-bo-me-dang-bi-coi-thuong/c/45075895.epi, ngày truy cập 28/02/2023.
[14] Wanje, G., Masese, L., Avuvika, E., Baghazal, A., Omoni, G., and Mclelland, R. S. (2017), Parents’ and teachers’ views on sexual health education and screening for sexually transmitted infections among in-school adolescent girls in Kenya: a qualitative study (Quan điểm của phụ huynh và giáo viên về giáo dục sức khỏe tình dục và sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở nữ vị thành niên đang đi học ở Kenya: một nghiên cứu định tính), Reproductive Health, 14 (95): 1–11.